Tải Free Tiểu Luận Các Học Thuyết Chính Trị Và Pháp Luật xin chào các anh chị, hôm nay Luận Văn Trust chúng tôi xin chia sẻ bài viết tiểu luận về các học thuyết về chính trị và pháp luật, nếu các anh chị cũng đang tìm kiếm tài liệu kham thảo về đề tài này thì đừng bỏ lỡ bài viết này nhé.
Trong quá trình làm tiểu luận, các anh chị có thể xem qua dịch vụ viết tiểu luận của Luận Văn Trust để được chúng tôi hỗ trợ tư vấn đề tài và báo giá viết bài trọn gói nhé. Nếu có những thắc mắc hay cần tư vấn về dịch vụ hãy kết bạn mình qua Zalo/Tele: 0917.193.864
1. Học Thuyết Chính Trị – Pháp Luật Của Môngtexkiơ
1.1. Khái quát về tiểu sử của Môngtexkiơ – Tiểu Luận Các Học Thuyết Chính Trị Và Pháp Luật
Môngtexkiơ (1689- 1755) là nhà văn, nhà triết học, xã hội học và sử học Pháp. Ông được coi là nhà sáng lập ra khoa học chính trị của giai cấp tư sản Pháp thế kỷ XVIII và có ảnh hưởng lớn đến Cách mạng tư sản Pháp 1789. Ông sinh ra trong một gia đình quan chức cao cấp của nghị viện có tinh thần tiến bộ. Ngày từ nhỏ ông đã say mê văn học cổ và luật học. Bên cạnh tham gia các công tác xã hội, như làm chủ tịch nghị viện thành phố Boócđô, ông còn say mê nghiên cứu các vấn đề triết học, vật lý. Năm 1728, ông được cử làm thành viên của Viện Hàn lâm khoa học Pháp.
Môngtexkiơ là một trong những người sáng lập ra trường phái địa lí trong xã hội học; ông cho rằng bộ mặt tinh thần của một dân tộc, tính chất luật pháp của một xã hội phụ thuộc vào những điều kiện địa lí. Môngtexkiơ cũng nhấn mạnh đến vai trò của môi trường xã hội mà theo ông, nó được đồng nhất với khái niệm chế độ chính trị và luật pháp.
Những tác phẩm chính: “Những bức thư Ba Tư” (1721), “Suy nghĩ vê nguyên nhân thịnh suy của người La Mã” (1734), “Tinh thần pháp luật” (1748).

1.2. Nội dung học thuyết chính trị – pháp luật của Môngtexkiơ
Nội dung tư tưởng chủ yếu trong học thuyết chính trị-pháp luật của Môngtexkiơ là học thuyết phân quyền, với mục đích tạo dựng những thể chế chính trị, đảm bảo tự do cho các công nhân.
Theo ông, tự do chính trị của công dân là quyền mà người ta có thể làm mọi cái mà pháp luật cho phép. Pháp luật là thước đo của tự do.Cũng như Arixxtot và J.Locco, Môngtexkiơ cho rằng, thể chế chính trị tự do là thể chế mà trong đó, quyền lực tối cao được phân thành ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Lập pháp: biểu hiện ý chí chung của quốc gia. Nó thuộc về toàn thể nhân dân, được trao cho hội nghị đại biểu nhân dân (Quốc hội).
Hành pháp: là việc thực hiện luật pháp đã được thiết lập. Quyền này không được thực hiện bởi những thành viên của Quốc hội.
Tư pháp: là để trừng trị tội phạm và giải quyết sự xung đột giữa các cá nhân. Các thẩm phán được lựa chọn từ dân và xử án chỉ tuân theo pháp luật.
Tư tưởng phân quyền của Môngtexkiơ là đối thủ đáng sợ của chủ nghĩa chuyên chế phong kiến. Có thể khẳng định, ông là người đã phát triển và hoàn thiện học thuyết: “tam quyền phân lập”.
Môngtexkiơ kịch liệt lên án chế độ quân chủ chuyên chế ở Pháp lúc bấy giờ. Chế độ quân chủ chuyên chế là một tổ chức quyền lực tồi tệ, phi lý vì: nhà nước tồn tại vốn biểu hiện của ý chí chung, nhưng trong chế độ chuyên chế nó lại biểu hiện ý chí đặc thù – chế độ chuyên chế với bản chất vô pháp luật và nhu cầu pháp luật. Môngtexkiơ nhận thấy pháp luật là trái với bản chất của nó; gắn với bản chất chế độ chuyên chế là tình trạng lạm quyền. Vì vậy, việc thanh toán hiện tượng lạm quyền chỉ có thể là đồng thời, là sự thanh toán chế độ chuyên chế. Theo Montesquieu, một khi quyền lực tập trung vào một mối, kể cả một người hay một tổ chức, thì nguy cơ chuyên chế vẫn còn.
Theo thuyết “tam quyền phân lập”, quyền lực nhà nước được chia làm 3 và giao cho mỗi hệ thống cơ quan khác nhau đảm trách: quyền lập pháp giao cho Nghị viện, quyền hành pháp giao cho Chính phủ, quyền tư pháp giao cho Toà án.
Theo Môngtexkiơ, tự do chỉ có thể có được khi pháp luật được tuân thủ nghiêm ngặt. Muốn vậy phải phân quyền, vì nếy quyền lực trong tay một cá nhân hay một cơ quan sẽ nảy sinh độc đoán, chuyên quyền. Muốn khắc phục phải dùng quyền lực hạn chế và kiểm soát quyền lực. Khi quyền lực nhà nước được phân chia làm 3 bộ phận do 3 cơ quan khác nhau nắm giữ và bộ máy phải thiết chế sao cho ba quyền đó ở thế đối trọng nhau và không có cơ quan nào đứng trên 3 cơ quan đó.
Trong tác phẩm “Tinh thần pháp luật, Môngtexkiơ đã lập luận tinh tế và chặt chẽ tính tất yếu của việc tách bạch các nhánh quyền lực và khẳng định: “Trong bất cứ quốc gia nào đều có ba thứ quyền: quyền lập pháp, quyền thi hành những điều phù hợp với công pháp quốc tế và quyền thi hành những điều trong luật dân sự”[1]. Từ đó, Môngtexkiơ chủ trương phân quyền để chống lại chế độ chuyên chế, thanh toán nạn lạm quyền, để chính quyền không thể gây hại cho người bị trị và đảm bảo quyền tự do cho nhân dân. Môngtexkiơ đã viết: “Khi mà quyền lập pháp và hành pháp nhập lại trong tay một người hay một Viên Nguyên Lão, thì sẽ không có gì là tự do nữa, vì người ta sợ rằng, chính ông ta hoặc viện ấy chỉ đặt ra những luật độc tài để thi hành một cách độc tài. Cũng không có gì là tự do nếu nhu quyền tư pháp không tách rời quyền lập pháp và hành pháp. Nếu quyền tư pháp được nhập với quyền lập pháp, thì người ta sẽ độc đoán với quyền sống, quyền tự do của công dân; quan toà sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp, thì toà sẽ có cả sức mạnh của kẻ đàn áp. Nếu một người hay một tổ chức của quan chức, hoặc của quý tộc, hoặc của dân chúng, nắm luôn cả ba thứ quyền lực nói trên thì tất cả sẽ mất hết”[2].
Tóm lại, theo Môngtexkiơ, cách thức tổ chức nhà nước của một quốc gia là: “Cơ quan lập pháp trong chính thể ấy gồm có hai phần, phần này ràng buộc phần kia. Cả hai phần sẽ bị quyền hành pháp ràng buộc, và quyền hành pháp sẽ bị quyền lập pháp ràng buộc”[3].
XEM THÊM ==> Tiểu Luận Môn Kinh Tế Chính Trị [Danh sách 323 đề tài + Bài mẫu điểm cao]
1.3. Đánh giá học thuyết chính trị – pháp luật của Môngtexkiơ
* Ưu điểm: Tiểu Luận Các Học Thuyết Chính Trị Và Pháp Luật
Ưu điểm quan trọng nhất của học thuyết chính trị-pháp luật của Môngtexkiơ tư tưởng phân quyền, tránh được sự chuyên quyền, độc tài trong thực hiện quyền lực nhà nước, đưa xã hội loài người lên một bước mới trong quản lý và điều hành đất nước. Nội dung cốt lõi của học thuyết này cho rằng, quyền lực nhà nước luôn có xu hướng mở rộng, tự tăng cường vai trò của mình. Bất cứ ở đâu có quyền lực là xuất hiện xu thế lạm quyền và chuyên quyền, cho dù quyền lực ấy thuộc về ai. Do vậy, để đảm bảo các quyền tự do cơ bản của công dân, ngăn ngừa các hành vi lạm quyền của các chủ thể nắm giữ quyền lực nhà nước thì phải thiết lập pháp chế nhằm giới hạn quyền lực nhà nước. Cách tốt nhất để chống lạm quyền là giới hạn quyền lực bằng các công cụ pháp lý và cách thực hiện không phải là tập trung quyền lực, mà là phân chia nó ra. Muốn hạn chế quyền lực nhà nước thì trước hết phải phân quyền, và sau đó phải làm cho các nhánh quyền lực đã được phân chỉ được phép hoạt động trong phạm vi quy định của pháp luật.
* Hạn chế: Tiểu Luận Học Thuyết Chính Trị Và Pháp Luật
Hạn chế chủ yếu của học thuyết chính trị-pháp luật của Môngtexkiơ là do phân quyền nên dễ dẫn tới sự tranh chấp, kìm hãm lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước, nhằm giành quyền lợi nhiều hơn trong thực thi quyền lực nhà nước. Nó cũng tạo nên sự giảm đồng bộ, thống nhất và gắn kết giữa các cơ quan quyền lực nhà nước. Phân quyền suy cho cùng cũng chỉ là sự chia sẻ quyền lực của các nhà tư bản với nhau và cùng cai trị giai cấp lao động. Nó không thể hiện được sự làm chủ của nhân dân trong bộ máy nhà nước, trong điều kiện hoàn hảo thì 3 cơ quan đó (lập pháp, hành pháp, tư pháp) hoạt động một cách độc lập, tách biệt hoàn toàn. Còn trong điều kiện không hoàn hảo (áp dụng không triệt để) thì cho thấy sự lạm quyền đặc biệt thấy rõ nhất là ở Hoa Kỳ, Tổng thống đang dần dần “lấn sân” của Quốc hội trong vấn đề lập pháp. Như vậy dù áp dụng triệt để hay không thì “tam quyền phân lập” vẫn có nhiều khiếm khuyết trong quá trình dân chủ, nên không thể tạo ra được một nền dân chủ triệt để được.
2. Liên Hệ Thực Tiễn Ở Việt Nam
2.1. Thực tiễn học thuyết chính trị – pháp luật của Môngtexkiơ ở Việt Nam
Kể từ khi có chế độ Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước Việt Nam vẫn được tổ chức theo nguyên tắc tập quyền, tức là quyền lực nhà nước là thống nhất, phủ nhận hoàn toàn những biểu hiện của phân quyền. Nhưng với công cuộc đổi mới, mở cửa, và nhất là với công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay, những hạt nhân hợp lý trong học thuyết phân quyền đã được chúng ta ghi nhận trong quy định của Hiến pháp năm 1992, sửa đổi năm 2001. Điều 2 của Hiến pháp 1992 quy định: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[4]. Hiện nay, tổ chức bộ máy nhà nước tại Việt Nam, về bản chất vẫn bảo đảm tính tập quyền xã hội chủ nghĩa, song trên thực tế đã vận dụng những hạt nhân hợp lý của thuyết phân quyền, nghĩa là nhấn mạnh đến khía cạnh phân công quyền lực. Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”[5].
Như vậy, ở Việt Nam, quyền lực nhà nước thống nhất không phải bắt nguồn và tập trung vào một nhánh quyền nào hay một cơ quan nào, mà cả ba nhánh quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đều bắt nguồn từ Nhân dân – chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước như Hiến pháp năm 2013 khẳng định “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” (khoản 2 Điều 1); Nhân dân trao quyền, ủy quyền cho Quốc hội, Chính phủ, Tòa án thực hiện các quyền này. Quyền lực nhà nước thống nhất được xác định ở việc thống nhất trong mục tiêu hướng tới đó là: dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp và chính đáng của người dân, phát huy dân chủ từ cơ sở, đảm bảo lợi ích của dân tộc, của quốc gia.
Mặc dù quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng không phải tập quyền, tập trung tuyệt đối vào một nhánh, đề cao quyền lực của một nhánh quyền và hạ thấp vai trò của các nhánh quyền còn lại. Quyền lực nhà nước thống nhất nhưng có sự phân công hợp lý: Quyền lập pháp được trao cho Quốc hội, quyền hành pháp trao cho Chính phủ và quyền tư pháp do Tòa án thực hiện. Bản chất của quyền lập pháp là đại diện cho nhân dân, ý chí của Nhân dân được thể hiện rất rõ trong chức năng của Quốc hội đó là quyền biểu quyết thông qua các văn bản luật, mà đặc biệt là quyền thông qua Hiến pháp – luật cơ bản của nhà nước, là văn bản mà người dân được tham gia và thể hiện tập trung nhất ý chí và nguyện vọng của Nhân dân, quyền làm chủ của Nhân dân. Bên cạnh đó, Quốc hội đại diện cho người dân thực hiện quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước, thay mặt nhân dân biểu quyết những vấn đề quan trọng của đất nước với mục tiêu bảo vệ lợi ích của người dân, của quốc gia. Quyền hành pháp là quyền thực thi pháp luật, quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội, quyền này được thực hiện bởi hệ thống cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở, đứng đầu là Chính phủ – cơ quan hành chính nhà nước cao nhất. Quyền tư pháp được trao cho Tòa án – thực hiện chức năng xét xử. So với quyền lập pháp và quyền hành pháp, quyền tư pháp cần sự độc lập và chỉ tuân theo những nguyên tắc, quy định của pháp luật để bảo vệ Hiến pháp, bảo vệ pháp luật, thực thi công lý, công bằng, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, góp phần xây dựng đất nước ổn định, văn minh, dân chủ và phát triển.
Quyền lực nhà nước là thống nhất nên có sự “phân công” mà không phải là “phân chia” như học thuyết “phân chia quyền lực” của Môngtexkiơ, vì vậy quan điểm của Đảng và tinh thần Hiến pháp năm 2013 đã nhất quán Việt Nam không theo học thuyết “tam quyền phân lập” như nhiều quốc gia trên thế giới. Quyền lực nhà nước được phân định thành ba nhánh và phân công cho các cơ quan khác nhau thực hiện, đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động bộ máy nhà nước, tránh trùng lắp, chồng chéo và hướng tới thực hiện mục tiêu chung của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để đảm bảo được điều đó, ba nhánh quyền không chỉ có sự phân công mà còn có sự phối hợp lẫn nhau, sự phối hợp tốt nhất đó là các cơ quan đảm bảo thực hiện hiệu lực, hiệu quả tức là làm đúng, đủ và tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn luật định. Đồng thời phối hợp chính là để tạo cơ chế kiểm soát giữa các cơ quan khi thực hiện các nhánh quyền này. Trong nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ chế kiểm soát được thể hiện rõ trong hoạt động giám sát của Quốc hội với Chính phủ, với Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Đặc biệt sự hình thành hai cơ quan: Tổng kiểm toán nhà nước và Hội đồng bầu cử quốc gia trong Hiến pháp 2013 và quy định cơ chế bảo hiến tại khoản 2 Điều 119 đã xác định rõ hơn cơ chế kiểm soát, mặc dù Hiến pháp 2013 chưa quy định được một cơ chế bảo hiến chuyên trách như quan điểm của Đảng đã đề ra nhưng đây là lần đầu tiên trong năm bản Hiến pháp của Việt Nam cơ chế bảo hiến được đề cập, điều này khẳng định cơ chế kiểm soát trong thực thi quyền lực nhà nước được tăng cường hơn, cũng như cần phát huy hơn nữa ý thức, trách nhiệm của toàn thể Nhân dân trong kiểm soát hoạt động của các cơ quan nhà nước – cơ chế kiểm soát bên ngoài tổ chức bộ máy nhà nước.
Chúng tôi kiến nghị các bạn xem thêm bài viết Danh Sách Đề Tài Tiểu Luận Trung Cấp Chính Trị, Tải 10 Bài Mẫu bao gồm các bài mẫu hay tải miễn phí được luận văn Trust chúng tôi chọn lọc qua.
2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện cơ chế quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay
Để tiếp tục nâng cao hiệu quả thực hiện cơ chế quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay, cần quán triệt và tiến hành đồng bộ nhiều nội dung khác nhau, trong đó, cần tập trung thực hiện có hiệu quả các vấn đề sau:
Một là, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và quản lý nhà nước
Tiếp tục cải tiến chế độ bầu cử các cơ quan dân cử, bảo đảm cho cử tri tiếp xúc, đối thoại với ứng cử viên, có đủ thông tin để trao đổi, nhận xét, lựa chọn và bầu cử đại biểu của mình thực sự dân chủ trên cơ sở có sự lãnh đạo, hướng dẫn về tiêu chuẩn, cơ cấu.
Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan dân cử (Quốc hội, Hội đồng nhân dân) để các cơ quan này thực sự là cơ quan đại diện của nhân dân và là cơ quan quyền lực nhà nước trong việc xem xét và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, của địa phương.
Đẩy mạnh cải cách thể chế và thủ tục hành chính trong các lĩnh vực trực tiếp liên quan đến đời sống nhân dân.
Xác định rõ trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan nhà nước trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Xử lý nghiêm minh các hành vi trì hoãn, chậm trễ, làm sai lệch, can thiệp trái pháp luật hoặc lẩn tránh trách nhiệm đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Các cơ quan có thẩm quyền lập pháp, lập quy cần rà soát, sửa đổi, bổ sung và xây dựng mới các văn bản pháp luật với các định chế cụ thể, rõ ràng về quyền giám sát, kiểm tra của nhân dân trong các lĩnh vực sản xuất, phân phối, thu chi ngân sách, tài chính, các chế độ thu và sử dụng học phí, viện phí… trong các cơ quan, đơn vị sản xuất kinh doanh, trường học, bệnh vện.
Nghiên cứu thực hiện từng bước chế độ dân chủ trực tiếp, trước hết ở cấp cơ sở.
Hai là, nâng cao chất lượng hoạt động và kiện toàn tổ chức Quốc hội
Nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động lập pháp. Căn cứ vào định hướng phát triển đất nước, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và điều kiện, khả năng thực hiện mà xác định rõ thứ tự ưu tiên trong chương trình xây dựng pháp luật dài hạn và hằng năm. Chỉ đạo chặt chẽ quá trình chuẩn bị và thông qua các dự án luật, đảm bảo quán triệt đường lối, quan điểm của Đảng, trên cơ sở tổng kết thực tiễn Việt Nam, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm nước ngoài, tránh sao chép, rập khuôn. Cần tập hợp trí tuệ của các nhà khoa học, các chuyên gia, lấy ý kiến nhân dân. Các luật ban hành cần bảo đảm tính khả thi, dễ hiểu, quy định cụ thể để giảm bớt tình trạng phải chờ đợi quá nhiều văn bản hướng dẫn mới thi hành được.
Nâng cao năng lực quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước. Phấn đấu tiến tới việc Quốc hội thực hiện đầy đủ quyền quyết định ngân sách như Hiến pháp quy định, bảo đảm các điều kiện để Quốc hội xem xét quyết định một cách thực chất các kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, các chương trình quốc gia, các dự án đầu tư lớn cũng như các vấn đề quan trọng về tổ chức bộ máy nhà nước và nhân sự.
Nâng cao chất lượng giám sát của Quốc hội. Quốc hội có chương trình giám sát hàng năm tập trung vào những vấn đề bức xúc như chống tham những, chống lãng phí, về quản lý vốn và tài sản nhà nước, bắt giam, điều tra, truy tố, xét xử… Đổi mới việc xem xét báo cáo công tác và việc trả lời chất vấn của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Đề cao vai trò của cơ quan kiểm toán nhà nước trong việc kiểm toán mọi cơ quan, tổ chức có sử dụng ngân sách nhà nước.
Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy Quốc hội. Cần tăng thêm hợp lý số đại biểu chuyên trách cho các Uỷ ban trong Quốc hội. Cải tiến và nâng cao chất lượng hoạt động của đại biểu Quốc hội và sinh hoạt của Quốc hội. Có các hình thức thu hút các chuyên gia giỏi làm tư vấn cho các Uỷ ban của Quốc hội trong các hoạt động thẩm định và giám sát. Nghiên cứu và thành lập thêm một số Uỷ ban của Quốc hội.
Ba là, tiếp tục cải chính nền hành chính của nhà nước
Nâng cao hiệu quả hoạt động của Chính phủ. Chính phủ và bộ máy nhà nước thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại theo đúng chức năng phù hợp với cơ chế mới. Đó là: Quản lý kinh tế – xã hội theo pháp luật, giữ gìn ổn định chính trị – xã hội và trật tự kỷ cương; chăm lo xây dựng kết cấu hạ tầng và những ngành kinh tế then chốt, bảo đảm môi trường và điều kiện chung cho nhân dân phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao đời sống; Thông qua các công cụ quản lý vĩ mô và vai trò của kinh tế nhà nước để quản lý thị trường, điều tiết thu nhập; Tăng cường kiểm kê, kiểm soát sản xuất và phân bố; quản lý, sử dụng có hiệu quả vốn và tài sản công; Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế, văn hoá với tăng cường an ninh, quốc phòng và mở rộng hoạt động đối ngoại.
Đẩy mạnh phân cấp quản lý. Phân định trách nhiệm, thẩm quyền giữa các cấp chính quyền theo hướng phân cấp rõ hơn cho địa phương, kết hợp chặt chẽ quản lý ngành và quản lý lãnh thổ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra. Đổi mới tổ chức thanh tra phù hợp với chức năng quản lý nhà nước trong điều kiện mới; phát triển mạnh tổ chức thanh tra việc thực hiện thể chế về từng lĩnh vực trong toàn xã hội như tài chính, lao động, giáo dục, vệ sinh – y tế, xây dựng,… Nghiên cứu tăng thẩm quyền cho các cơ quan thanh tra trong việc xử lý hành chính tại chỗ các vi phạm pháp luật. Đẩy mạnh hoạt động tự thanh tra, kiểm tra trong nội bộ các cơ quan, tổ chức nhà nước; đề cao trách nhiệm kiểm tra của cấp trên đối với cấp dưới, của các cấp chính quyền đối với mọi cơ quan, tổ chức trên địa bàn lãnh thổ.

Bốn là, đẩy mạnh cải cách tư pháp
Hoạt động tư pháp phải nhằm đấu tranh nghiêm trị các tội chống Tổ quốc, chống chế độ, tội tham nhũng và các tội hình sự khác, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của công dân. Khắc phục tình trạng bắt và giam giữ oan sai, xét xử không công minh, vi phạm quyền dân chủ của công dân. Các cơ quan tư pháp phải là mẫu mực của việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, phải thể hiện công lý, tính dân chủ, công khai trong hoạt động.
Nâng cao chất lượng hoạt động của viện kiểm sát theo chức năng quy định trong Hiến pháp, tập trung làm tốt chức năng công bố và kiểm soát hoạt động tư pháp.
Đổi mới hệ thống toà án nhân dân. Thực hiện nguyên tắc 2 cấp xét xử. Nghiên cứu áp dụng thủ tục rút gọn để xét xử kịp thời một số vụ án đơn giản, rõ ràng. Đổi mới thủ tục giám đốc thẩm để bảo đảm việc xét xử vừa đúng đắn và nhanh chóng.
Kiện toàn các cơ quan điều tra, hỗ trợ tư pháp. Sắp xếp lại cơ quan điều tra theo hướng gọn đầu mối, kết hợp chặt chẽ giữa trinh sát điều tra ban đầu với hoạt động của cơ quan điều tra nhằm bảo đảm sự thống nhất trong phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, bảo đảm quyền dân chủ và sự an toàn của công dân. Kiện toàn các tổ chức thi hành án; chấn chỉnh các trại giam để giáo dục, cải tạo tốt phạm nhân. Củng cố và tăng cường các tổ chức hỗ trợ tư pháp. Đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động luật sư, tư vấn pháp luật, giám định tư pháp…phù hợp với chủ trương xã hội hoá; kết hợp quản lý nhà nước với vai trò tự quản của các tổ chức nghề nghiệp.
Năm là, thực hiện đầy đủ nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước
Thực hiện sự phân công, phân nhiệm rõ ràng, mạch lạc giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong điều kiện chỉ có một đảng duy nhất cầm quyền như ở nước ta hiện nay, việc thực hiện sự phân công quyền lực cụ thể, rõ ràng sẽ tạo điều kiện cho bộ phận quyền lực này có thể kiểm soát được bộ phận quyền lực khác hiệu quả. Ngoài ra, thực hiện sự phân công quyền lực rõ ràng sẽ khắc phục được sự trùng lắp, dựa dẫm, ỷ lại hoặc không rõ trách nhiệm trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước. Do vậy, cần quán triệt chủ trương của Đảng: “xác định rõ hơn vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước”[6].
Bảo đảm sự phối hợp đồng bộ, hiệu quả trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Tăng cường sức mạnh tổng hợp và nâng cao hiệu lực, hiệu quả giám sát, kiểm tra, tránh chồng chéo, trùng lặp, lãng phí nguồn lực, không hiệu quả; quán triệt và thực hiện phương châm “tăng cường kiểm tra, giám sát công tác cán bộ, gắn với kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền; bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ cơ chế giám sát của Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị – xã hội với cơ chế nhân dân trực tiếp giám sát quyền lực nhà nước.
Tiểu Luận Các Học Thuyết Chính Trị Và Pháp Luật với những thông tin trên chúng tôi chia sẻ hy vọng có thể mang lại giá trị kham thảo cho các anh chị. Cảm ơn đã tin tưởng đội ngũ luận văn chúng tôi, ngoài ra luanvantrust.com còn nhiều bài tiểu luận, khóa luận hay khác, các anh chị có thể kham thảo thêm. Nếu cần trợ giúp tư vấn về bài viết hoặc báo giá viết bài thì hãy liên hệ với chúng tôi.
DV viết thuê đề tài : 0917.193.864
Zalo/Tele : 0917.193.864