Cơ Sở Lý Luận Về Nhận Thức Và Trách Nhiệm Nhà Sản Xuất nội dung bài viết này được nhiều bạn sinh viên tìm kiếm khá nhiều, hiểu được nỗi khó khăn của các bạn sinh viên cần tìm nguồn tài liệu chất lượng để kham thảo, luận văn Trust liên tục cập nhật những bài viết hay, và dưới đây là một trong những bài viết mà luận văn Trust muốn chia sẻ. Nội dung bài viết bao gồm cơ sở lý luận về nhận thức, khái quát chung về trách nhiệm mở rộng sản xuất.
Hiện nay Luận Văn Trust có dịch vụ hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ, đại học, quá trình làm bài luận văn nếu các bạn chưa chọn được đề tài hay gặp các khó khăn trong quá trình làm bài có thể liên hệ với Dịch vụ thuê viết khóa luận giá rẻ của Luận Văn Trust nhé.
Mục lục
- 1 1. Cơ sở lý luận về nhận thức
- 2 2. Khái quát chung về trách nhiệm mở rộng sản xuất
- 2.1 2.1. Khái niệm về trách nhiệm mở rộng sản xuất
- 2.2 2.2. Các loại trách nhiệm trong chính sách Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất
- 2.3 2.3. Cách thức hoạt động của các chính sách Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất
- 2.4 2.4. Những yêu cầu đối với nhà sản xuất để thực hiện Trách nhiệm mở rộng
- 2.5 2.5. Ý nghĩa và lợi ích của chính sách Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất
1. Cơ sở lý luận về nhận thức
1.1. Khái niệm về nhận thức – Cơ Sở Lý Luận Về Nhận Thức Và Trách Nhiệm Nhà Sản Xuất
Nhận thức là một thuật ngữ đề cập đến các quá trình tinh thần liên quan đến việc đạt được kiến thức và hiểu biết. Các quá trình nhận thức này bao gồm suy nghĩ, hiểu biết, ghi nhớ, phán đoán và giải quyết vấn đề. (American Psychological Association, 2018).
Nhận thức là hành động hay quá trình tiếp thu kiến thức và những am hiểu thông qua suy nghĩ, kinh nghiệm và giác quan, bao gồm các qui trình như là tri thức, sự chú ý, trí nhớ, sự đánh giá, sự ước lượng, sự lí luận, sự tính toán, việc giải quyết vấn đề, việc đưa ra quyết định, sự lĩnh hội và việc sử dụng ngôn ngữ. (Từ điển Bách khoa Việt Nam),
Nhận thức là quá trình biện chứng của sự phản ánh thế giới khách quan trong ý thức con người, nhờ đó con người tư duy và không ngừng tiến đến gần khách thể. (Triết học Mác Lênin)
1.2. Các loại quy trình nhận thức
Có nhiều loại quá trình nhận thức khác nhau, bao gồm:
- Chú ý: Chú ý là một quá trình nhận thức cho phép mọi người tập trung vào một kích thích cụ thể trong môi trường.
- Ngôn ngữ: Ngôn ngữ và phát triển ngôn ngữ là quá trình nhận thức liên quan đến khả năng hiểu và diễn đạt suy nghĩ thông qua lời nói và chữ viết. Nó cho phép con người giao tiếp với những người khác và đóng một vai trò quan trọng trong suy nghĩ.
- Học tập: Học tập đòi hỏi các quá trình nhận thức liên quan đến việc tiếp nhận những điều mới, tổng hợp thông tin và tích hợp nó với kiến thức trước đó.
- Trí nhớ: Trí nhớ là một quá trình nhận thức quan trọng cho phép con người mã hóa, lưu trữ và truy xuất thông tin. Nó là một thành phần quan trọng trong quá trình học tập và cho phép mọi người lưu giữ kiến thức về thế giới và lịch sử cá nhân.
- Tri giác: Tri giác là một quá trình nhận thức cho phép con người tiếp nhận thông tin thông qua các giác quan (cảm giác) và sau đó sử dụng thông tin này để phản hồi và tương tác với thế giới.
- Tư tưởng: Tư tưởng là một phần tất yếu của mọi quá trình nhận thức. Nó cho phép mọi người tham gia vào quá trình ra quyết định, giải quyết vấn đề và lập luận cao hơn.
Cách sử dụng nhận thức
Các quá trình nhận thức ảnh hưởng đến mọi khía cạnh của cuộc sống, từ trường học đến nơi làm việc đến các mối quan hệ. Một số cách sử dụng cụ thể cho các quá trình nhận thức này bao gồm những điều sau đây.
- Học những thứ mới
Học tập đòi hỏi khả năng tiếp nhận thông tin mới, hình thành ký ức mới và tạo kết nối với những thứ khác mà con người đã biết. Các nhà nghiên cứu và giáo dục sử dụng kiến thức của họ về các quá trình nhận thức này để giúp tạo ra các tài liệu hướng dẫn giúp mọi người học các khái niệm mới.
- Hình thành trí nhớ
Trí nhớ là một chủ đề chính được quan tâm trong lĩnh vực tâm lý học nhận thức. Cách chúng ta nhớ, những gì chúng ta nhớ và những gì chúng ta quên tiết lộ rất nhiều về cách các quá trình nhận thức hoạt động.
Trong khi mọi người thường nghĩ trí nhớ giống như một chiếc máy quay video, ghi lại và lập danh mục cẩn thận các sự kiện trong cuộc sống và lưu trữ chúng để nhớ lại sau này, nghiên cứu đã phát hiện ra rằng trí nhớ phức tạp hơn nhiều.
- Đưa ra quyết định
Bất cứ khi nào mọi người đưa ra bất kỳ loại quyết định nào, điều đó liên quan đến việc đưa ra đánh giá về những thứ họ đã xử lý. Nó có thể liên quan đến việc so sánh thông tin mới với kiến thức trước đây, tích hợp thông tin mới vào các ý tưởng hiện có, hoặc thậm chí thay thế kiến thức cũ bằng kiến thức mới trước khi đưa ra lựa chọn.
1.3. Quy trình nhận thức
Giai đoạn 1: Nhận thức cảm tính
Nhận thức cảm tính (trực quan sinh động) là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức. Ở giai đoạn này, con người sử dụng các giác quan của cơ thể để nắm bắt sự vật, sự việc ấy.
Nhận thức cảm tính phản ánh một cách trực tiếp các đối tượng bằng các giác quan của chủ thể nhận thức. Tuy nhiên, hạn chế của giai đoạn này là chưa khẳng định được những mặt, những mối liên hệ bản chất, tất yếu bên trong của sự vật. Để có thể thay đổi được điều này, nhận thức ở giai đoạn cao hơn, giai đoạn lý tính.
Giai đoạn 2: Nhận thức lý tính
Khác với phản ánh trực tiếp, nhận thức lý tính ( tư duy trừu tượng) là phản ánh gián tiếp trừu tượng, khái quát sự vật, được thể hiện qua các hình thức như khái niệm, phán đoán, suy luận. Đây là quá trình đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng.
Về cơ bản nhận thức cảm tính và lý tính có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhận thức cảm tính là cơ sở, nền tảng cho nhận thức lý tính. Trong khi đó, nhận thức lý tính phải dựa vào nhận thức cảm tính, gắn chặt với nhận thức cảm tính. Nhận thức lý tính cũng chứa đựng các thành phần của nhận thức cảm tính dù chúng có những trừu tượng và khái quát. Ngược lại nhận thức lý tính chi phối nhận thức cảm tính, làm cho nhận thức cảm tính tinh vi hơn, nhạy bén hơn và chính xác hơn, có lựa chọn và ý nghĩa hơn.
Giai đoạn 3: Nhận thức trở về thực tiễn
Đây là giai đoạn mà tri thức tiếp nhận được kiểm nghiệm. Thực tiễn là một trong các giai đoạn của quá trình nhận thức, là tiêu chuẩn của chân lý, cơ sở động lực, muc đích của nhận thức có vai trò kiểm nghiệm tri thức đã nhận thức được. Mục đích cuối cùng của nhận thức không chỉ để giải thích và cải tạo thế giới mà còn có chức năng định hướng thực tiễn.
1.4. Yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức
Các quá trình nhận thức rất phức tạp và thường không hoàn hảo. Một số yếu tố có thể ảnh hưởng đến nhận thức bao gồm:
- Các vấn đề liên quan tới sự chú ý: Sự chú ý có chọn lọc là một nguồn lực hạn chế, vì vậy có một số điều có thể khiến con người khó tập trung vào tất cả mọi thứ ở môi trường xung quanh.
- Các vấn đề và hạn chế về trí nhớ: Trí nhớ ngắn hạn ngắn đến mức đáng ngạc nhiên, thường chỉ kéo dài từ 20 đến 30 giây (Taylor & Francis, 2016). Mặt khác, trí nhớ dài hạn có thể ổn định và bền bỉ một cách đáng kinh ngạc, với những ký ức kéo dài nhiều năm và thậm chí nhiều thập kỷ. Đôi khi con người bị quên, và những lần khác, con người phải chịu những tác động của thông tin sai lệch, thậm chí có thể dẫn đến việc hình thành những ký ức sai lầm.
- Thành kiến về nhận thức: Thành kiến về nhận thức là những sai sót có hệ thống trong suy nghĩ liên quan đến cách con người xử lý và giải thích thông tin về thế giới. Thành kiến xác nhận là một ví dụ phổ biến liên quan đến việc chỉ chú ý đến thông tin phù hợp với niềm tin hiện có của con người trong khi bỏ qua bằng chứng không ủng hộ quan điểm của họ.

2. Khái quát chung về trách nhiệm mở rộng sản xuất
2.1. Khái niệm về trách nhiệm mở rộng sản xuất
Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (Extended Producer Responsibility – EPR) đã xuất hiện từ cuối những năm 1980 – 1990. Cơ chế này hiện đang được áp dụng tại các nước châu Á (như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan), tại hầu hết các nước thành viên Liên minh châu Âu cũng như các khu vực khác trên thế giới.
Xuất hiện lần đầu tiên trong một báo cáo của Bộ Môi trường Thụy Điển năm 1990, trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất được định nghĩa như sau “EPR là một chiến lược bảo vệ môi trường nhằm đạt được mục tiêu môi trường là giảm tổng tác động môi trường của một sản phẩm, bằng cách yêu cầu nhà sản xuất sản phẩm chịu trách nhiệm về toàn bộ vòng đời của sản phẩm và đặc biệt là cho việc thu hồi, tái chế và thải bỏ lần cuối”. Trao trách nhiệm cho người sản xuất với tư cách là người gây ô nhiễm không chỉ là vấn đề của chính sách môi trường mà còn là phương tiện hiệu quả nhất để đạt được các tiêu chuẩn môi trường cao hơn trong thiết kế sản phẩm.
Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất được định nghĩa là một “cách tiếp cận dưới góc độ chính sách bảo vệ môi trường theo đó trách nhiệm của nhà sản xuất đối với một sản phẩm được mở rộng tới tận giai đoạn thải bỏ trong vòng đời của sản phẩm đó” (Liên Hợp Quốc, 2019)
Trách nhiệm mở rộng của Nhà sản xuất là cách tiếp cận của chính sách Môi trường theo đó trách nhiệm của nhà sản xuất một loại sản phẩm được mở rộng tới giai đoạn thải bỏ trong vòng đời của sản phẩm đó.
Trong quản lý chất thải: “EPR là một công cụ quản lý bằng pháp luật được thiết kế dựa trên nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền, ở đó trách nhiệm của nhà sản xuất đối với sản phẩm của mình được mở rộng đến giai đoạn sau sử dụng nhằm thu gom được ở giai đoạn cuối của vòng đời sản phẩm để có thể phân loại trước khi xử lý mà chủ yếu là tái chế”. (Nguyễn Thi, 2020)
EPR yêu cầu nhà sản xuất có trách nhiệm quản lý các sản phẩm sau khi chúng trở thành rác thải, bao gồm: thu gom; tiền xử lý như phân loại, tháo dỡ hoặc khử ô nhiễm; để chuẩn bị cho tái sử dụng; thu hồi (bao gồm tái chế và thu hồi năng lượng) hoặc cuối cùng thải bỏ.
2.2. Các loại trách nhiệm trong chính sách Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất
Theo Lindhqvist (1992) có 03 loại trách nhiệm trong EPR, bao gồm trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm kinh tế và trách nhiệm vật chất, cụ thể:
Trách nhiệm pháp lý: Chính là trách nhiệm với thiệt hại môi trường đã được chứng minh gây ra bởi sản phẩm được đề cập. “Mức độ trách nhiệm được xác định theo luật pháp và có thể bao gồm các phần khác nhau trong vòng đời của sản phẩm, bao gồm cả việc sử dụng và thải bỏ cuối cùng.”
“Trách nhiệm kinh tế: Nhà sản xuất sẽ bao trả toàn bộ hoặc một phần chi phí, ví dụ, cho việc thu gom, tái chế hoặc xử lý cuối cùng sản phẩm mà anh ta đang sản xuất. Những chi phí này có thể được thanh toán trực tiếp bằng nhà sản xuất hoặc bằng một khoản phí đặc biệt.”
Trách nhiệm vật chất: được sử dụng để mô tả đặc điểm của các hệ thống trong đó nhà sản xuất tham gia vào việc quản lý vật lý của các sản phẩm và / hoặc ảnh hưởng của chúng. Nhà sản xuất cũng có thể giữ quyền sở hữu sản phẩm của mình trong suốt vòng đời của chúng, và do đó có liên quan đến các vấn đề môi trường của sản phẩm.
Trách nhiệm cung cấp thông tin: biểu thị một số khả năng khác nhau để mở rộng trách nhiệm đối với sản phẩm bằng cách yêu cầu nhà sản xuất cung cấp thông tin về các đặc tính môi trường của các sản phẩm.
2.3. Cách thức hoạt động của các chính sách Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất
Hệ thống EPR cho phép nhà sản xuất thực hiện trách nhiệm của mình hoặc bằng cách cung cấp các nguồn tài chính cần thiết và bắt đầu tiếp quản một số khía cạnh vận hành trong quy trình quản lý chất thải rắn từ các đô thị. Trách nhiệm có thể là tự nguyện hoặc bắt buộc; Hệ thống EPR có thể được thực hiện riêng lẻ hoặc theo nhóm hoặc tập thể. Các hệ thống EPR trên toàn thế giới có xu hướng tuân theo một số phương pháp tiếp cận: gồm hình thành một Tổ chức thực hiện trách nhiệm của Nhà sản xuất (Producer Responsibility Organization – PRO) (duy nhất theo ngành hàng hoặc nhiều PRO trong cùng ngành hàng và cạnh tranh với nhau), hình thành Quỹ do Chính phủ quản lý và vận hành, tín chỉ giao dịch bên cạnh việ các tổ chức tự thực hiện. Ngoài ra, Nhà sản xuất có thể thực hiện trách nhiệm độc lập. Tuy nhiên, mô hình vận hành EPR với sự hình thành PRO là phổ biến nhất với nhiều ưu điểm trong việc chuyên môn hoá các hoạt động cũng như tối ưu hoá các chi phí.
Các nhà sản xuất có thể trả phí như một khoản phí trả trước dựa trên tác động của một sản phẩm, bằng cách cung cấp việc thu thập thực tế sản phẩm của họ vào cuối vòng đời của chúng hoặc thông qua các cơ chế theo định hướng thị trường như ghi chú, thu hồi chất thải đóng gói.
XEM THÊM ==> Cách Viết Đề Cương Khóa Luận Tốt Nghiệp Đạt Chuẩn Nhất
2.4. Những yêu cầu đối với nhà sản xuất để thực hiện Trách nhiệm mở rộng
EPR là công cụ đa tác động, một mặt làm thay đổi thói quen sản xuất sản phẩm, bao bì để giảm chi phí thu gom, tái chế, xử lý mặt khác là công cụ tài chính hiệu quả để đẩy mạnh việc thu gom, tái chế, hạn chế tối đa sự thất thoát sản phẩm, hàng hóa ra môi trường, góp phần quan trọng trong bảo vệ môi trường.
Do vậy, nhà sản xuất, nhà nhập khẩu cần hiểu rõ chính sách EPR để tự điều chỉnh quá trình sản xuất như thiết kế lại sản phẩm, thay đổi nguyên vật liệu sản xuất theo hướng có thân thiện với môi trường, giảm bớt việc sử dụng bao bì khi đưa sản phẩm ra thị trường ….
“Để thực hiện EPR, nhà sản xuất, nhà nhập khẩu có trách nhiệm báo cáo thông tin dự kiến về số lượng, khối lượng, chủng loại của từng sản phẩm, bao bì do mình sản xuất, nhập khẩu vào năm sau để có cơ sở thực hiện trách nhiệm của nhà sản xuất, nhập khẩu. Sau khi thực hiện EPR, doanh nghiệp báo cáo có kiểm toán số liệu thực tế để xác định việc hoàn thành nghĩa vụ của mình. Kinh nghiệm thế giới cho thấy, các doanh nghiệp thường uỷ quyền cho một Tổ chức thực hiện Trách nhiệm của Nhà sản xuất (Producer Responsibility Organization – PRO) để tối ưu hoá chi phí cho việc vận hành và báo cáo của mình. Ở Việt Nam, Liên minh Tái chế bao bì (PRO Việt Nam) hay Việt Nam Tái Chế là một ví dụ về tổ chức này đã được thành lập để đón đầu và hỗ trợ các thành viên trong liên minh thực hiện nghĩa vụ EPR khi quy định có hiệu lực pháp luật.”
Nghĩa vụ quan trọng nhất mà nhà sản xuất, nhà nhập khẩu là đạt được tỷ lệ tái chế bắt buộc và phải tái chế theo đúng quy cách. Do vậy, nhà sản xuất cần tìm ra các biện pháp để đáp ứng quy định này. Như đề cập ở trên, việc ủy quyền cho bên thứ 3 thực hiện là đạt hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên, nếu tự tổ chức tái chế hoặc thuê đơn vị tái chế thì phải lựa chọn kỹ các đơn vị tái chế đủ điều kiện và đủ năng lực để thực hiện, đặc biệt là phải có được mạng lưới thu gom sản phẩm, bao bì sau sử dụng hiệu quả nhất hoặc thông qua hệ thống đồng nát hoặc thiết lập các điểm tiếp nhận sản phẩm, bao bì sau sử dụng ….
Nhà sản xuất, nhà nhập khẩu cũng cần tham gia tích cực vào quá trình xác định tỷ lệ tái chế, định mức chi phí tái chế thông qua việc cử đại diện của mình vào Hội đồng EPR Quốc gia. Tỷ lệ tái chế và định mức chi phí tái chế được công bố định kỳ 3 năm một lần. Đây chính là quyền lợi sát sườn của doanh nghiệp một mặt nó bảo đảm sự đồng thuận trong xác định tỉ lệ tái chế và định mức chi phí tái chế mặt khác nó bảo đảm sự khả thi trong thực hiện bởi chính nhà sản xuất, nhà nhập khẩu là người trực tiếp thi hành quy định này.
2.5. Ý nghĩa và lợi ích của chính sách Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất
2.5.1. Ý nghĩa
Là một chính sách môi trường tuân theo nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả tiền”, EPR yêu cầu các Nhà sản xuất phải chịu trách nhiệm về tác động tới môi trường mà sản phẩm của họ sẽ gây ra trong suốt chuỗi cung ứng, từ giai đoạn thiết kế đến thải bỏ. Với cách tiếp cận này, EPR được chứng minh là có hiệu quả trong:
- Chia sẻ gánh nặng tài chính và/ hoặc một phần trách nhiệm quản lý chất thải rắn từ chính quyền địa phương và người nộp thuế nói chung sang cho Nhà sản xuất.
- Thúc đẩy cải tiến sản phẩm theo hướng tiết kiệm nguyên liệu, giảm sử dụng các dạng nguyên liệu độc hại, khó tái chế, tối ưu hoá thiết kế thuận tiện cho việc thu gom, phân loại, tháo dỡ và tái chế… (thiết kế vì môi trường).
- Giúp tiết kiệm tài nguyên thông qua giảm chất thải, tăng tái chế (kinh tế tuần hoàn).
- Tạo ra các cơ hội kinh tế trong suốt các giai đoạn khác nhau của vòng đời sản phẩm, đặc biệt là ngành công nghiệp và dịch vụ môi trường trong quản lý và xử lý chất thải.
2.5.2. Lợi ích
Lợi ích của các chính sách trách nhiệm của người sản xuất mở rộng có thể được phân loại thành kinh tế, môi trường và xã hội. Chi phí quản lý và phối hợp xử lý chất thải rắn thường do các thành phố trực thuộc địa phương chịu trách nhiệm. Mức độ phát sinh chất thải ngày càng tăng, các yêu cầu kỹ thuật nghiêm ngặt hơn đối với việc vận hành các bãi chôn lấp và lò đốt, và ngày càng khó khăn trong việc xây dựng các khu xử lý chất thải mớicác cơ sở do sự phản đối của công chúng đều góp phần làm tăng chi phí xử lý chất thải. Chính phủ – cụ thể là các thành phố trực thuộc địa phương – thường chịu trách nhiệm về tài chính và vật chất đối với việc xử lý chất thải. Mở rộng trách nhiệm của nhà sản xuất là một nỗ lực nhằm tạo động lực cho các nhà sản xuất thiết kế các sản phẩm giảm tác động đến môi trường trong khi chuyển các chi phí liên quan đến việc thải bỏ cho nhà sản xuất.
Các động lực môi trường đối với trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất bao gồm tăng khả năng tái chế sản phẩm, giảm việc sử dụng các thành phần độc hại trong sản phẩm và giảm lượng vật liệu được đưa đến bãi chôn lấp hoặc lò đốt thay vì tái sử dụng hoặc tái chế. Khả năng tái chế của sản phẩm phụ thuộc nhiều vào thiết kế sản phẩm. Rất khó để tái chế các sản phẩm không được thiết kế để tháo dỡ, có hàm lượng thành phần độc hại cao hoặc có các thành phần như nhựa compositecó vấn đề để tái chế. Với trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, việc thiết kế các sản phẩm có thể dễ dàng tái chế hoặc tái sử dụng về mặt lý thuyết là lợi ích tốt nhất của nhà sản xuất vì nhà sản xuất chịu trách nhiệm thải bỏ. Ngoài việc chỉ định trách nhiệm xử lý sản phẩm, hầu hết các chính sách trách nhiệm của người sản xuất mở rộng cũng yêu cầu người sản xuất phải tái chế một tỷ lệ cụ thể của sản phẩm được thu gom theo trọng lượng hoặc thể tích. Tái chế sản phẩm có thể làm giảm lượng năng lượng cần thiết để sản xuất một sản phẩm và tạo ra không khí và nước liên kết ô nhiễm so với sản xuất một sản phẩm từ nguyên liệu thô sơ.
Trách nhiệm của người sản xuất mở rộng cũng có lợi ích xã hội. Việc thực hiện các chính sách trách nhiệm của nhà sản xuất mở rộng có thể cải thiện hình ảnh trước công chúng của một công ty. Nhu cầu của người tiêu dùng đối với các sản phẩm thân thiện với môi trường có thể tái chế khi hết tuổi thọ và được sản xuất với ít vật liệu độc hại ngày càng tăng.
Khi các nhà sản xuất phải đối mặt với gánh nặng tài chính hoặc vật chất của việc tái chế thiết bị điện tử của họ sau khi sử dụng, họ có thể được khuyến khích thiết kế các thiết bị điện tử bền vững hơn, ít độc hại hơn và dễ tái chế hơn.
Sử dụng ít vật liệu hơn và thiết kế sản phẩm để tồn tại lâu hơn có thể trực tiếp làm giảm chi phí cuối đời của nhà sản xuất. Do đó, trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất thường được coi là một cách để chống lại sự lỗi thời theo kế hoạch, bởi vì nó khuyến khích các nhà sản xuất thiết kế để tái chế và làm cho sản phẩm có tuổi thọ cao hơn. Ngoài việc chống lại sự lỗi thời theo kế hoạch, bằng cách phân bổ một phần trách nhiệm tài chính cho việc thanh toán và quản lý chất thải cho nhà sản xuất, áp lực đặt lên chính phủ có thể được giảm bớt. Hiện nay, nhiều chính phủ chịu sức nặng của việc xử lý và chi hàng triệu đô la cho việc thu gom và loại bỏ chất thải. Tuy nhiên, các kế hoạch này thường thất bại do các chính phủ không có đủ tiền để lập và thực thi các kế hoạch này một cách hợp lý. Đặt trách nhiệm cho các nhà sản xuất tiêu hủy sản phẩm của họ có thể giúp chính phủ tự do hơn trong việc tạo ra luật pháp mang lại lợi ích bền vững với chi phí thấp cho cả hai bên, đồng thời nâng cao nhận thức về các vấn đề mà EPR muốn giải quyết.

(Nguồn: Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2021)
Đối với nhà sản xuất, nhà nhập khẩu: họ sẽ được 3 cái lợi liên quan đến thương hiệu, nguyên liệu và hiệu quả sản xuất sản phẩm:
– Khi thực hiện EPR, nhà sản xuất sẽ nâng cao được hình ảnh thương hiệu của mình thông qua việc thể hiện trách nhiệm của doanh nghiệp đối với cộng đồng, xã hội. Họ sẽ thực hiện nghiêm túc không chỉ các quy định của pháp luật Việt Nam mà thực hiện một cách thiện chí các cam kết quốc tế về nâng cao biểu hiện môi trường cũng như nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
– Khi thực hiện EPR, nhà sản xuất sẽ tạo ra thị trường vật liệu, nguyên liệu dồi dào, đáp ứng nhu cầu về nguyên vật liệu trong sản xuất mà nguyên vật liệu tái chế có giá cả thấp hơn nhiều so với nguyên vật liệu nguyên sinh mà chất lượng tương đương (trừ một số loại nhựa đặc thù) do đó, sẽ cắt giảm được chi phí sản xuất.
– Khi thực hiện EPR, nhà sản xuất sẽ buộc phải thay đổi thiết kế, nguyên liệu, công nghệ sản xuất để sản xuất ra sản phẩm, bao bì dễ thu gom, tái chế, giảm thiểu chi phí thu gom, tái chế do vậy, sản phẩm làm ra thân thiện với môi trường, đáp ứng được thị hiếu và xu hướng đòi hỏi của người tiêu dùng, từ đó sản phẩm có sức hấp dẫn hơn, có khả năng cạnh tranh tốt hơn.
“Lợi ích về môi trường: EPR giúp tăng tỷ lệ tái chế, từ đó các vật liệu gây hại cho môi trường trong quá trình tiêu dùng được quay vòng trong chu trình sản xuất, tiêu dùng, thu gom, tái chế hoặc chuyển đổi các vật liệu này sang các dạng khác có vòng đời dài hơn; do đó sẽ giảm thiểu sự tồn tại của các vật liệu này trong môi trường sống, giảm ược tác động tiêu cực của các vật liệu này lên môi trường, các loài động thực vật và hệ sinh thái….
Lợi ích về kinh tế: EPR là yếu tố quan trọng hàng đầu trong mô hình kinh tế tuần hoàn, một mô hình kinh tế bảo đảm sự phát triển bền vững và tối ưu được các lợi thế cũng như sự tác động, hỗ trợ qua lại lẫn nhauủa các yếu tố trong nền kinh tế. Thông qua việc xây dựng cơ chế tham gia cho các doanh nghiệp tham gia chuỗi giá trị của các sản phẩm, bao bì thuộc diện phải thu hồi, tái chế mà các lợi ích của nhà sản xuất, nhà nhập khẩu, nhà tái chế được tối ưu hóa. Cải thiện kinh doanh và thu hút đầu tư để phát triển hơn nữa lĩnh vực tái chế và xử lý chất thải. Góp phần tạo ra việc làm và việc làm chất lượng cao trên bình diện thu nhập, trình độ và điều kiện làm việc. Giảm phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên liệu thô và nâng cao sức cạnh tranh của nguyên liệu thứ cấp. Hỗ trợ du lịch thông qua môi trường trong sạch hơn.
Lợi ích về xã hội: Góp phần cung cấp thông tin và nâng cao nhận thức cho người tiêu dùng về cách phân loại, xử lý chất thải tại nhà. Mang lại cho các gia đình một môi trường có lợi cho sức khỏe. Nâng cao năng lực sản xuất, BVMT của đội ngũ thu gom, tái chế phi chính thức (hệ thống đồng nát, làng nghề). Tăng cường tương tác giữa những các bên cung cấp nguyên liệu, thiết kế và sản xuất bao bì, kinh doanh hàng tiêu dùng, bán lẻ và xử lý chất thải. Góp phần giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp khi tạo ra các công việc mới.”

2.5.3. Thách thức
Thách thức trong quản lý nhà nước
Quản lý nhà nước trong lĩnh vực EPR bao gồm các hoạt động thiết lập hệ thống và phân chia trách nhiệm và các bên liên quan. Các nhà hoạch định chính sách có vai trò quan trọng trong việc xác định rõ ràng vai trò và trách nhiệm tương ứng đơn vị nhà nước, chuyên gia, nhà sản xuất và người tiêu dùng và đảm bảo rằng các vai trò và trách nhiệm được thực hiện hiệu quả. Chính vì vậy, việc quản lý nhà nước trong lĩnh vực EPR cũng phải đối mặt với một số thách thức sau đây:
Thứ nhất, sự chồng chéo và không rõ ràng trong vai trò và trách nhiệm của các chủ thể khác nhau trong lĩnh vực EPR, trong đó bao gồm mối liên hệ giữa cơ quan nhà nước và chuyên gia có thể xảy ra. Trên thực tế, trong mỗi ngành nghề khác nhau thì sự phân chia trách nhiệm giữa các bên liên quan cũng khác nhau, dựa trên nhiều yếu tố như mục tiêu tổng thể của một chương trình EPR, cơ sở hạ tầng sẵn có hay thực tiễn quản lý chất thải. Như vậy, các nhà hoạch định chính sách sẽ cần phải chỉ định các chức năng cụ thể cho từng bên liên quan để tránh thiếu sót và chồng chéo vai trò, trách nhiệm giữa các bên.
Thứ hai, thách thức trong việc quản lý nhà nước của EPR là sự thiếu minh bạch và khó khăn trong việc thu thập và so sánh dữ liệu. Các dữ liệu về EPR của quốc gia như chi phí mà các nhà sản xuất, tái chế và các thành phố phải đối mặc sẽ không được cung cấp hoặc bị hạn chế cung cấp bởi các PROs, do có thể cản trở sự cạnh tranh trên thị trường.
Thứ ba, thách thức khác trong việc quản lý EPR hiệu quả là việc kiểm soát và xử lý các tình huống khi một số nhà sản xuất không tuân thủ đầy đủ các nghĩa vụ theo EPR. Bên cạnh đó, việc thiếu các cơ chế thực thi EPR cũng gây khó khăn trong việc quản lý nhà nước đối với các chính sách EPR. Điều này đòi hỏi các chính sách phải bao hàm đầy đủ và hạn chế tối đa các vấn đề có thể xảy ra nhằm đe dọa đến hoạt động của EPR, tiếp đến là sự giám sát và kiểm soát thường xuyên từ cơ quan chức năng.
Thách thức đối với nền kinh tế
Bản chất đa bên liên quan của EPR và quyền sở hữu của các tổ chức tư nhân làm cho các chính sách về EPR có khả năng gây ra các mối lo ngại về thương mại và cạnh tranh. Những vấn đề này có thể phát sinh ở các cấp độ khác nhau, gồm cạnh tranh giữa thị trường sản phẩm, cạnh tranh giữa PROs với thị trường thu gom rác thải hay giữa PROs với các nhà cung cấp dịch vụ tái chế. Cụ thể, khi các nhà sản xuất lựa chọn thực hiện nghĩa vụ của họ thì các quyết định của nhà sản xuất sẽ ảnh hưởng đến thị trường sản phẩm tương ứng. Trong trường hợp các nhà sản xuất đồng ý rằng mức phí để xử lý chất thải được chuyển cho người tiêu dùng thì dẫn đến sự giảm trong cạnh tranh về giá đối với các sản phẩm ban đầu. Đặc biệt, điều này sẽ gây ra sự khó khăn hơn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bên cạnh đó, việc các PROs đơn lẻ hoạt động trong một thị trường có thể hưởng lợi từ quy mô của nền kinh tế, tuy nhiên những PROs độc quyền có thể gây ra hiện tường lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, khiến các nhà sản xuất sẽ phải chịu các khoản phí và điều kiện cao do các PROs đơn phương áp đặt mà không có sự lựa chọn khác. Việc PROs độc quyền hoạt động trong một thị trường và phát triển các dịch vụ quản lý chất thải sẽ gây ra các rào cản gia nhập thị trường đối với những PROs mới vì sự gia nhập này đòi hỏi chi phí đầu tư cao vào cơ sở hạ tầng thu gom và tái chế ngay từ đầu.
Bên cạnh đó, việc áp dụng các chính sách về EPR cũng gây ra khó khăn khi thực hiện các loại phí khác nhau và thiếu các ưu đãi cho các thiết kế cho môi trường và cách hiểu khác nhau về thu hồi toàn bộ chi phí, khi trách nhiệm tài chính của các nhà sản xuất theo EPR chỉ ra rằng họ phải chịu toàn bộ chi phí thực tế cho vòng đời cuối cùng của sản phẩm nhằm tối ưu hóa chi phí và hiệu quả môi trường. Ngoài ra, sự chênh lệch lớn và mức độ bao phủ chi phí giữa các chính sách EPR đã làm các nhà hoạch định chính sách lo ngại về hiệu quả chi phí.
Một số thách thức khác
Việc thực thi các chính sách trách nhiệm mở rộng của các nhà sản xuất có thể dẫn đến các thách thức về xã hội, khi những cơ sở tái chế trái phép và bất hợp pháp luôn hiện hữu trên thị trường. Nguyên nhân là do các tổ chức trái phép, phi chính thức không phải tuân thủ các tiêu chuẩn về an toàn và môi trường nên có chi phí hoạt động ít hơn cà có lợi hơn so với các cơ sở tái chế chính thức.
Chính sách EPR sẽ tạo ra động lực để thu hồi vật liệu từ các sản phẩm thải bỏ, nhưng dường như ít đề cập đến việc khuyến khích tái sử dụng và giảm thiểu chất thải. Điều này có thể gây nên sự lãng phí trong các chính sách của EPR.
Cơ Sở Lý Luận Về Nhận Thức Và Trách Nhiệm Nhà Sản Xuất nội dung bài viết phù hợp với các bạn sinh viên đang tìm kiếm tài liệu kham thảo hỗ trợ cho bài làm khóa luận sắp tới phải nộp cho nhà trường, cám ơn các bạn đã tin tưởng và theo dõi page, chúc các bạn có một bài viết hoàn thiện. Nếu cần hỗ trợ cho bài viết khóa luận, bài báo cáo tốt nghiệp hãy liên hệ với chúng tôi.
Số điện thoại : 0917.193.864
Zalo : 0917.193.864