Cơ Sở Lý Luận Về Hoạt Động Marketing Du Lịch Mới Nhất

Cơ Sở Lý Luận Về Hoạt Động Marketing Du Lịch

Cơ Sở Lý Luận Về Hoạt Động Marketing Du Lịch Mới Nhất hiểu rõ được nỗi khó khăn của các bạn sinh viên cuối cấp phải làm khóa luận theo yêu cầu của giáo viên nhà trường, đội ngũ luận văn Trust chúng tôi đã cập nhật bài viết này, nhằm hỗ trợ các bạn hoàn thành bài viết tốt hơn, và bài viết hôm nay chúng tôi muốn chia sẻ tới các bạn bao gồm nội dung: khái niệm marketing, marketing trong du lịch; các chính sách marketing trong du lịch; các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động marketing.

Quá trình làm báo cáo thực tập, khóa luận tốt nghiệp các bạn học viên có thể xem qua dịch vụ nhận làm khóa luận tốt nghiệp của Luận Văn Trust để được hỗ trợ tư vấn đè tài và báo giá viết báo cáo trọn gói nhé.

1. Khái niệm marketing, marketing trong du lịch.

1.1. Khái niệm marketing

Marketing: là môn khoa học kinh tế, nghiên cứu tính quy luật hình thành và động thái chuyển hóa nhu cầu có sức mua chưa được thỏa mãn thành quyết định mua tiềm năng của người tiêu dung và nghệ thuật đồng quy các hoạt động, ứng xử kinh doanh trong khuôn khổ chính sách, giải pháp công nghệ và quản trị hỗn hợp để nhận biết, tiên lượng, thông đạt các nhu cầu khách hàng và đảm bảo tối ưu hiệu quả mục tiêu kinh tế-xã hội tổng hợp của doanh nghiệp kinh doanh trong mối quan hệ với thị trường của nó.

Theo định nghĩa về marketing của Philip Kotler: “Marketing là một dạng hoạt động của con người nhằm thoả mãn những nhu cầu và mong muốn của họ thông qua trao đổi.” Marketing là một quá trình quản lý mang tính xã hội, nhờ nó mà các cá nhân và các nhóm người khác nhau nhận được cái mà họ cần và mong muốn thông qua việc tạo ra, cung cấp và trao đổi các sản phẩm có giá trị với những người khác.

Cơ Sở Lý Luận Về Hoạt Động Marketing Du Lịch
Cơ Sở Lý Luận Về Hoạt Động Marketing Du Lịch

1.2. Khái niệm marketing du lịch: Khóa Luận Về Hoạt Động Marketing Du Lịch

Du lịch là một lĩnh vực kinh doanh đa dạng, tổng hợp và khá phức tạp. Chính vì vậy, khái niệm marketing ngành du lịch cũng rất rộng, cho đến nay cũng chưa có bất kỳ một định nghĩa chính thức nào về marketing trong ngành du lịch

Khi vận dụng lý thuyết marketing vão lĩnh vực kinh doanh du lịch, định nghĩa marketing phải đảm bảo các nội dung cốt lõi sau đây:

Tìm cách thoả mãn những nhu cầu và mong muốn của khách hàng.

Coi marketing là hoạt động liên tục mang tính lâu dài chứ không phải chỉ quyết định một lần là xong.

Coi trọng thu thập thông tin và nghiên cứu marketing để nắm bắt nhu cầu, mong muốn của du khách, những động thái của các đối thủ cạnh tranh, các đối tượng hữu quan khác nhằm đảm bảo hoạt động marketing có hiệu quả. Điều này có nghĩa là nghiên cứu marketing phải đóng vai trò quan trọng then chốt.

Các công ty lữ hành và khách sạn phụ thuộc lẫn nhau, có nhiều cơ hội và cần phải hợp tác với nhau trong hoạt động marketing.

“Marketing du lịch là một triết lý quản trị, mà nhờ đó tổ chức du lịch nghiên cứu, dự đoán và lựa chọn dựa trên mong muốn của du khách để từ đó đem sản phẩm du lịch ra thị trường sao cho phù hợp với mong muốn của thị trường mục tiêu, thu nhiều lợi nhuận cho tổ chức du lịch đó” – Định nghĩa của UNWTO

“Marketing du lịch là một quá trình trực tiếp cho các cơ quan, doanh nghiệp du lịch xác định khách hàng hiện tại và khách hàng tiềm năng, ảnh hưởng đến ý nguyện và sáng kiện khách hàng ở cấp độ địa phương, khu vực quốc gia và quốc tế để doanh nghiệp có khả năng thiết kế và tạo ra các sản phẩm du lịch nhằm nâng cao sự hài lòng của khách và đạt được mục tiêu đề ra” – Theo “Cẩm nang marketing và xúc tiến du lịch bền vững ở Việt Nam” do Fundesco biên soạn và xuất bản

Có rất nhiều định nghĩa về marketing du lịch, nhưng tựu chung lại trọng tâm của hoạt động marketing hiệu quả là hướng về người tiêu dùng. Các doanh nghiệp du lịch nghiên cứu tìm hiểu những gì mà khách cần sau đó cung cấp các sản phẩm hoặc dịch vụ có thể thoả mãn nhu cầu này.

Hoạt động marketing trong doanh nghiệp phải được thấu suốt ở mọi bộ phận, mọi nhân viên có giao tiếp với khách, mọi phương tiện có thể giới thiệu và khuyến khích khách sử dụng các dịch vụ của doanh nghiệp. các dịch vụ của du lịch khác với mục tiêu: hoá đơn thanh toán trung bình của khách sử dụng dịch vụ càng cao càng tốt. từ các nội dung cơ bản trên, chúng ta có định nghĩa marketing sau đây cho ngành kinh doanh du lịch : “Marketing là quá trình liên tục, nối tiếp nhau qua đó bộ phận marketing của các doanh nghiệp kinh doanh du lịch lập kế hoạch, nghiên cứu, thực hiện, kiểm soát, đánh giá các hoạt động nhằm thoả mãn nhu cầu mong muốn của khách hàng và đạt được những mục tiêu của công ty”.

Theo WTO : Marketing du lịch là một loại phương pháp và kỹ thuật được hỗ trợ bằng một tinh thần đặc biệt và có phương pháp nhằm thoả mãn các nhu cầu không nói ra của khách hàng, có thể là mục đích tiêu khiển hoặc những mục đích khác

Từ định nghĩa trên có 5 nhiệm vụ của marketing đó là: lập kế hoạch, nghiên cứu, thực hiện, kiểm soát, đánh giá. Để đạt được hiệu quả cao nhất marketing đòi hỏi sự cố gắng của mọi người trong doanh nghiệp, và những hoạt động của các công ty hỗ trợ cũng có thể mang lại hiệu quả.

Những khác biệt của marketing du lịch

Du lịch là ngành dịch vụ có những đặc thù riêng biệt, nên marketing du lịch cũng mang những nét riêng nhất định:

            Bản chất vô hình của dịch vụ: Kinh doanh du lịch là hướng vào dịch vụ. Do đó các sản phẩm dịch vụ là vô hình. Nếu như là một sản phẩm hàng hoá thì có thể xem xét, kiểm tra, thử để đánh giá chất lượng hàng hoá đó có tốt hay không, nhưng đối với dịch vụ thì không thể làm như vậy, chỉ khi khách trực tiếp trải qua mới đánh giá được.

            Phương thức sản xuất: Kinh doanh du lịch cũng được coi là đơn vị sản xuất hàng hoá, đó là những sản phẩm dịch vụ. Sản phẩm hàng hóa hữu hình được sản xuất ở một nơi sau đó vận chuyển đến nơi tiêu thụ thông qua các kênh phân phối. Nhưng đối với dịch vụ thì không thể như vậy, các sản phẩm du lịch được tiêu dùng và sản xuất diễn ra đồng thời, khách hàng cần phải đến tận nơi thì mới tiêu dùng được sản phẩm dịch vụ đó.

            Tính không đồng nhất: Điều này được thể hiện rất rõ, đó là khách hàng có tính chất quyết định vào việc tạo ra sản phẩm dịch vụ. Nếu có khách hàng thì sản phẩm dịch vụ mới được tạo ra. Do vậy các doanh nghiệp du lịch thường cố gắng tiêu chuẩn hoá các dịch vụ nhưng điều đó không thật dễ vì dịch vụ bị cá nhân hoá. Chẳng hạn, hai khách hàng cũng tiêu dùng một sản phẩm du lịch như nhau, nhưng họ có ý kiến đánh giá hoàn toàn khác nhau về dịch vụ, nó phụ thuộc vào kinh nghiệm của bản thân và tâm lý của du khách. Bên cạnh đó có thể là do thái độ phục vụ của nhân viên hoặc do môi trường khách quan đã làm ảnh hưởng đến mục tiêu marketing của du lịch

            Tính dễ hư hỏng và không cất giữ được: Vì tính đồng thời vừa sản xuất vừa tiêu dùng dịch vụ cho nên nó không giống như hàng hoá có thể đem cất, lưu kho khi chưa bán được mà nó sẽ bị mất đi ngay sau đó.

Thời gian tiếp cận với các dịch vụ ngắn hơn: Thời gian tiếp cận của khách hàng với các dịch vụ du lịch thường ngắn, có ít thời gian để tạo ấn tượng tốt với khách hàng. Các sản phẩm không thể bảo hành được, khách không thể đổi dịch vụ được vì bản chất vô hình của dịch vụ du lịch

Hấp dẫn mua dựa trên khía cạnh tình cảm nhiều hơn: Do các sản phẩm du lịch được tiêu dùng và sản xuất diễn ra đồng thời, luôn có sự tiếp xúc trực tiếp giữa người với người. Những xúc cảm và tình cảm cá nhân nảy sinh trong quá trình giao tiếp có tác động đến hành vi mua sau này của khách. Sự ràng buộc tình cảm này xảy ra thường xuyên hơn đối với các dịch vụ của du lịch so với các dịch vụ khác.

Nhấn mạnh nhiều hơn về hình tượng và tầm cỡ: Do khách hàng thương lựa chọn mua các sản phẩm, dịch vụ du lịch dựa trên yếu tố tình cảm nhiều hơn nên ảnh hưởng từ việc xây dựng hình tượng và tầm cỡ của doanh nghiệp du lịch, của điểm đến du lịch là rất quan trọng.

Chú trọng nhiều hơn trong việc quản lý các bằng chứng vật chất: Bằng chứng vật chất trong nghành du lịch bao gồm: giá, truyền thông, và những thông tin truyền miệng của khách hàng. Do tính vô hình của sản phẩm dịch vụ du lịch nên các bằng chứng hữu hình trên trở nên hết sức quan trọng.

Đa dạng và nhiều loại kênh phân phối hơn: Trong kinh doanh du lịch thay vì một hệ thống kênh phân phối dày đặc như hàng hoá thì nghành du lịch có một hệ thống đặc trưng các trung gian môi giới về lữ hành gồm các đại lý và các công ty cùng đưa ra các chương trình nghỉ trọn gói, tác động lên những gì khách sẽ mua. Hơn nũa các trung gian trong nghành tác động rất nhiều đến quyết định mua của khách

Sự phụ thuộc nhiều hơn vào các nhà cung cấp: Bản chất của sản phẩm du lịch là một sản phẩm tổng hợp, khách du lịch đánh giá tổng thể chất lượng sản phẩm qua các nhà cung cấp có liên quan. Nếu có một khâu nào đó có chất lượng kém sẽ ảnh hưởng đến tất cả các khâu còn lại.

Việc sao chép các dịch vụ dễ dàng hơn: Hầu hết các dịch vụ du lịch đều dễ bị sao chép, chặng hạn như một chương trình du lịch, một sản phẩm dịch vụ mới… do đặc điểm đồng thời giữa sản xuất và tiêu dùng của sản phẩm nên không thể cấm khách hàng, các đối thủ cạnh tranh vào nơi mà có dịch vụ được tiêu dùng giống nơi sản xuất hàng hoá của các đơn vị sản xuất. Sản phẩm dễ bị sao chép là yếu tố khó khăn nếu doanh nghiệp muốn làm khác biệt các dịch vụ để nâng cao tính cạnh tranh.

Sản phẩm có tính thời vụ rõ nét: do vậy việc chú trọng khuyến mại ngoài thời kỳ cao điểm là rất quan trọng

Những khác biệt do bối cảnh: Xu hướng trong ngành du lịch trên thế giới nói chung lâu nay thường do những người có nghiệp vụ kỹ thuật trong nghành du lịch thành lập và quản lý các doanh nghiệp. Rất ít trong số họ được đào tạo bài bản về marketing. Họ thường phải học hỏi về marketing trong quá trình làm việc. Khi ngành du lịch mới bắt đầu áp dụng marketing thì các doanh nghiệp khác đã có phòng marketing.

Chưa thực sự coi trọng các kỹ năng của marketing: Trong ngành du lịch nói chung thường có xu hướng coi trọng các kỹ thuật, nghiệp vụ phục vụ hơn là các kỹ năng về marketing. Do vậy, thực sự là các kỹ năng về marketing chưa được coi trọng một cách đầy đủ và chưa được coi như một nghề cần có các chuyên gia thực sự.

Việc tổ chức trong các doanh nghiệp: Cách tổ chức công tác marketing và bộ phận marketing trong các doanh nghiệp kinh doanh du lịch cũng hết sức khác nhau tuỳ theo quy mô và cấp hạng của doanh nghiệp. Thông thường trong các doanh nghiệp kinh doanh du lịch, giám đốc điều hành và giám đốc marketing được trao cho một người trong khi ở các ngành khác thường có bộ phận marketing riêng biệt.

Do các tác động bởi quy định chung của nhà nước: Nhìn chung trong các hoạt động du lịch nói chung chịu sự điều chỉnh cao của các cơ quan nhà nước. Điều đó có xu hướng làm giảm sự năng động, hạn chế sự linh hoạt trong công tác marketing của các tổ chức này.

XEM THÊM ==>  Chiến Lược Truyền Thông Marketing Tích Hợp Công Ty Du Lịch

2. Các chính sách marketing trong du lịch.

2.1. Chính sách sản phẩm.

2.1.1. Một số khái niệm: Khóa Luận Về Hoạt Động Marketing Du Lịch

Ngày nay khi nói về sản phẩm người ta không chỉ hình dung ra nó chỉ ở dạng tồn tại của vật chất cụ thể mà phải quan niệm nó ở mức độ rộng lớn hơn nhiều. Khái niệm sản phẩm là phức tạp bởi vì một sản phẩm chắc chắn có một số đặc trưng nhất định  nhưng cũng có những đặc trưng phi vật chất.

Philip Kotler định nghĩa: “sản phẩm là mọi thứ có thể chào bán trên thị trường để chú ý, mua, sử dụng hay tiêu dùng, có thể thoả mãn được một mong muốn hay nhu cầu.

Điều đó có nghĩa là, sản phẩm được hiểu là tất cả mọi hàng hoá và dịch vụ có thể đem ra chào bán và có khả năng thoả mãn một nhu cầu hay mong muốn của con người, gây sự chú ý, kích thích mua sắm và tiêu dùng của họ.

Sản phẩm du lịch vừa là mặt hàng cụ thể vừa là một mặt hàng không cụ thể. Nói cách khác, sản phẩm du lịch là tổng hợp các thành tố khác nhau nhằm cung cấp cho khách kinh nghiệm du lịch trọn vẹn và sự hài lòng.

Sản phẩm du lịch chủ yếu là dịch vụ mang tính tổng hợp cao dựa trên cơ sở của nhiều ngành nghề khác nhau. Hơn nữa, do đặc tính riêng biệt nên sản phẩm du lịch khó xác định được chu kỳ sống. Chính vì những đặc điểm ấy, chính sách sản phẩm trong marketing du lịch là nhằm đa dạng hóa sản phẩm thông qua việc tổ hợp các yếu tố cấu thành, nâng cao sự nhận diện của thương hiệu doanh nghiệp

Chính sách sản phẩm được hiểu là tổng thể những quy tắc chỉ huy việc tạo ra và tung sản phẩm vào thị trường để thoả mãn nhu cầu của thị trường và thị hiếu của khách hàng trong từng thời kỳ kinh doanh của doanh nghiệp đảm bảo việc kinh doanh có hiệu quả. Hay là chủ trương của doanh nghiệp về việc hạn chế, duy trì, phát triển, mở rộng đổi mới cơ cấu mặt hàng nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường với hiệu quả phù hợp với các giai đoạn chu kỳ sống của sản phẩm.

2.1.2. Xác định danh mục sản phẩm.

Cơ Sở Lý Luận Về Hoạt Động Marketing Du Lịch: Các doanh nghiệp ngày nay không kinh doanh   một loại sản phẩm mà thông thường nó bao gồm rất nhiều sản phẩm, dịch vụ khác nhau tập hợp thành một hỗn hợp sản phẩm. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực du lịch để thoả mãn nhu cầu của khách hàng thì việc có một hỗn hợp sản phẩm đa dạng là điều bắt buộc. Sự đa dạng hoá của dịch vụ được đánh giá thông qua chiều dài, chiều rộng, chiều sâu và tính đồng nhất của danh mục sản phẩm.

Danh mục sản phẩm là tập hợp các nhóm chủng loại sản phẩm dịch vụ mà các đơn vị hàng hoá do mọi người bán cụ thể đem ra chào bán cho người mua. Những sản phẩm, dịch vụ kháu nhau của danh mục sản phẩm của doanh nghiệp tác động lẫn nhau theo nghĩa tự cạnh tranh, nhưng cũng bở sung cho nhau, do vậy việc xác định quy mô của danh mục sản phẩm là một nội dung quan trọng của chính sách sản phẩm

Chủng loại sản phẩm dịch vụ có liên quan chặt chẽ với nhau do giống nhau về chức năng hay do bán chung cho cùng một nhóm khách hàng, hay thông qua cùng một kiểu tổ chức thương mại hay trong khuôn khổ của một dãy giá.

Bề rộng danh mục sản phẩm dịch vụ là tổng số các nhóm chủng loại sản phẩm, dịch vụ do doanh nghiệp cung cấp ra thị trường.

Mức độ phong phú của danh mục sản phẩm dịch vụ ( chiều dài của danh mục sản phẩm ) là tổng các sản phẩm của tất cả các chủng loại trong danh mục sản phẩm của doanh nghiệp

Bề sâu của danh mục sản phẩm dịch vụ là số lượng các sản phẩm khác nhau trong cùng một chủng loại hay có thể xác định bằng số lượng sản phẩm trung bình trong mỗi chủng loại hoặc tổng số các hàng hoá cụ thể được chào bán trong từng mặt hàng riêng của nhóm chủng loại.

Tính đồng nhất cuả danh mục sản phẩm phản ánh mức độ gần gũi, hài hoà của hàng hoá thuộc các nhóm chủng loại khách nhau xét theo góc độ mục đích   sử dụng cuối cùng hoặc những yêu cầu về tổ chức sản xuất, các kênh phân phối hay một tiêu chuẩn nào đó.

Xác định danh mục sản phẩm là quyết định các thông số cơ bản của nó nhằm thoả mãn nhu cầu và mong muốn khách hàng. Một doanh nghiệp có thể kéo dài chủng loại sản phẩm bằng cách kéo dài sản phẩm trong chủng loại hay  bổ sung thêm những sản phẩm mới trong phạm vi hiện tại của chủng loại đó.

2.1.3. Phát triển sản phẩm mới.

Danh mục sản phẩm dịch vụ ban đầu sẽ thoả mãn thị trường mục tiêu nhưng về lâu về dài sẽ có sản phẩm còn phù hợp hơn và lúc đó sản phẩm của doanh nghiệp trở lên lỗi thời. Do đó cần có định hướng chiến lược mở rộng (phát triển) danh mục sản phẩm dịch vụ. Đổi mới này sẽ dựa trên cơ sở nghiên cứu thị trường và thị trường mục tiêu của doanh nghiệp. Việc hoặc định chính sách phát triển và tăng trưởng sản phẩm dịch vụ được tiến hành thông qua việc phân tích hai thông số chính : sản phẩm và thị trường. Từ đó, doanh nghiệp tuỳ vào tình hình cụ thể mà có các chính sách khách nhau trong đó phát triển sản phẩm mới có nghĩa là trên cơ sở các nhu cầu khách hàng và cạnh tranh trên thị trường mà chúng ta quyết định tạp sản phẩm mới để thu hút thêm khách hàng và thoả mãn nhu cầu của khách hàng.

Theo quan điểm marketing, sản phẩm mới có thể là mới về nguyên tắc. Nó có thể được cải tiến từ sản phẩm hiện có hoặc thay đổi nhãn hiệu. Dấu hiệu quan trọng để đánh giá sản phẩm mới hay không chính là sự thừa nhận của khách hàng.

Phát triển sản phẩm mới không chỉ cho phép các doanh nghiệp đạt được mục tiêu về chi phí, lợi nhuận, thị phần, uy tín của doanh nghiệp mà còn giúp cho doanh nghiệp tăng cường khả năng cạnh tranh.

2.1.4. Các quyết định về sản phẩm.

Khi thực hiện chiến lược sản phẩm du lịch của mình các doanh nghiệp cần giải quyết hàng loạt các vấn đề có liên quan đến chính sách sản phẩm, và các quyết định này ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trên thị trường cũng như hình ảnh, vị thế mà doanh nghiệp sẽ tạo dựng đối với khách hàng tiềm năng của doanh nghiệp mình.

2.2. Chính sách giá: Khóa Luận Về Hoạt Động Marketing Du Lịch

Giá là một trong các biến số quan trọng của hoạt động marketing. Giá đóng vai trò quyết định trong việc mua hàng này hay hàng khác đối với người tiêu thụ. Đối với công ty giá có vị trí quyết định cạnh tranh trên thị trường. Việc định giá sản phẩm có ý nghĩa quan trọng đối với doanh nghiệp vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến doanh số và lợi nhuận.

2.2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến định giá.

Mục tiêu định giá

Xác định chi phí

Nhu cầu và co giãn của cầu theo giá

Giá và các biến số khác của marketing mix

Cạnh tranh và thị trường

Các yếu tố khác

2.2.2. Định giá và điều chỉnh giá trong kinh doanh du lịch.

Các phương pháp định giá

+ Định giá theo cộng lời vào chi phí

+  Định giá theo lợi nhuận mục tiêu

+  Định giá theo giá trị cảm nhận của khách hàng

+  Định giá theo giá hiện hành

+  Lựa chọn giá cuối cùng

Thay đổi giá

+  Chủ động cắt giảm giá

+  Chủ động tăng giá

XEM THÊM ==>  Khóa Luận Tốt Nghiệp Quản Trị Marketing [15 Bài Mẫu Hay]

2.3. Chính sách phân phối.

2.3.1. Khái niệm, đặc điểm.

Phân phối chình là việc đưa đến cho người tiêu dùng những sản phẩm mà họ có nhu cầu ở những thời điểm, thời gian, chất lượng, chủng loại, mong muốn. Hay nói cách khác, nó chính là phương hướng thể hiện các biện pháp, thủ thuật nhằm đưa sản phẩm và dịch vụ đến tay khách hàng cuối cùng đảm bảo yếu tố văn minh phục vụ

Theo quan điểm tổng quát, kênh phân phối là một tập hợp các doanh nghiệp và cá nhân độc lập hoặc phụ thuộc lẫn nhau, tham gia vào quá trình đưa hàng hoá từ người sản xuất đến người tiêu dùng.

Hệ thống các kênh phân phối trong du lịch là một tập hợp các đơn vị cung ứng hay cá nhân tham gia vào các hoạt động nhằm đưa khách hàng đến với các sản phẩm du lịch hoặc cung cấp thông tin về sản phẩm du lịch cho khách hàng.

Quá trình đưa được các sản phẩm du lịch được tạo ra đến với khách hàng được gọi là quá trình phân phối sản phẩm. Những quyết định gắn với quá trình đó chính là chiến lược phân phối sản phẩm.

2.3.2. Hệ thống các kênh phân phối trong kinh doanh du lịch.

Với marketing có 2 loại hình phân phối chính là :

Phân phối trực tiếp:

Người sản xuất à Người tiêu dùng.

Phân phối gián tiếp:

Người sản xuất à Các trung gian à Ngưòi tiêu dùng.

Ngoài ra các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành còn có thể bán hàng qua nhiều hình thức khác như: catalog, qua thư, điện thoại, fax, qua mạng internet…

2.3.4. Quản lý kênh phân phối.

Tuyển chọn các thành viên kênh

Chính sách chiết khấu

Quản lý xung đột

Quản lý về hiệu quả thực tiễn của các thành viên kênh

Sửa đổi kênh phân phối

2.4. Chính sách xúc tiến: Cơ Sở Lý Luận Về Hoạt Động Marketing Du Lịch

2.4.1. Đặc điểm của chính sách xúc tiến.

Hoạt động marketing hiện đại rất quan tâm đến chiến lược xúc tiến hỗn hợp. Đây là một trong bốn chiến lược chủ yếu của marketing – mix mà các tổ chức và doanh nghiệp du lịch sử dụng để tác động vào thị trường mục tiêu của mình

Hiểu theo nghĩa rộng, xúc tiến du lịch là hoạt động tuyên truyền, quảng bá, vận động nhằm tìm kiếm và thúc đẩy cơ hội phát triển du lịch.

Theo nghĩa hẹp, bản chất của xúc tiến chính là quá trình truyền tin để cung cấp thông tin về một sản phẩm và về doanh nghiệp với khách hàng để thuyết phục họ mua sản phẩm của doanh nghiệp mình. Do vậy trong nhiều ấn phẩm về quảng marketing gọi đây là cá hoạt động truyền thông marketing, nghĩa là truyền tải thông tin hay truyền tin marketing.

Hoạt động xúc tiến có ảnh hưởng tới chi phí sản xuất cũng như là chi phí phân phối và chi phí bán hàng. Cùng với sự phát triển và mở rộng của quan hệ thị trường, các chi phí cho hoạt động xúc tiến ngày càng tăng lên.

2.4.2. Vai trò xúc tiến.

Tạo điều kiện cho khách hàng tự do lựa chọn sản phẩm tiêu dùng.

Tạo điều kiện để sản phẩm du lịch được tiêu thụ nhiều lần.

Góp phần cải tiến sản phẩm.

2.4.3. Các bước của quá trình xúc tiến hỗn hợp.

Để lập kế hoạch cho xúc tiến thì gồm 4 bước:

Xác định các thị trường mục tiêu;

Thiết lập các mối quan hệ truyền thông;

Xét duyệt và tuyển chọn các phương án xúc tiến;

Ấn định thời gian xúc tiến.

Xúc tiến phải kịp thời và phù hợp, sau khi ấn định thì thiết kế in ấn và lựa chọn công cụ kết hợp khác… Chúng ta cần phải biết kết quả truyền thông của chúng ta có hiệu quả hay không. Muốn biết điều này thì nên so sách với thị trường mục tiêu.

1.2.4.4. Công cụ xúc tiến.

Trong du lịch các công cụ xúc tiến hỗn hợp gồm 6 công cụ chủ yếu đó là:

Quảng cáo;

Xúc tiến bán hàng;

Quan hệ công chúng / tuyên truyền;

Marketing trực tiếp;

Bán hàng trực tiếp / bán hàng cá nhân;

Mạng internet/ Truyền thông tích tích hợp.

Cơ Sở Lý Luận Về Hoạt Động Marketing Du Lịch Mới Nhất
Cơ Sở Lý Luận Về Hoạt Động Marketing Du Lịch Mới Nhất

2.5. Chính sách Con người.

Vai trò của nhân tố con người trong kinh doanh du lịch

Nhân tố con người giữ vị trí quan trọng trong marketing dịch vụ nói chung và marketing du lịch nói riêng. Có thể nói rằng thành công của một doanh nghiệp kinh doanh du lịch phụ thuộc rất nhiều vào việc tuyển dụng, đào tạo, huấn luyện, tạo động lực và quản lý con người trong doanh nghiệp.

Yếu tố con ngừời giữ vai trò khác nhau trong việc tác động tới nhiệm vụ của marketing và giao tiếp với khách hàng.

Để đảm bảo chất lượng các dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp cho khách hàng thì ngoài cơ sở vật chất kỹ thuật, các hoạt động của nhân viên có ý nghĩa rất quan trọng trong việc làm vừa long khách hàng. Việc thu hút, thúc đẩy, đào tạo và duy trì đội lao động có phẩm chất, phong cách, có lỹ năng nghiệp vụ tạo ra những công việc thỏa mãn nhu cầu cá nhân và tổ chức phối hợp tốt các công việc trong doanh nghiệp là hết sức quan trọng. marketing nội bộ nhằm khuyến khích những thái độ tốt của nhân viên nhằm thỏa mãn và thu hút khách. Sau khi đã tuyể chọn được đội ngũ nhân viên thích hợp với yêu cầu công việc, các nhà quản lý trong các doanh nghiệp du lịch phải kiểm soát được các hoạt động cụ thể của họ và kiểm soát được nhân viên để họ có thể làm được những việc tốt nhất trong quá trình phục vụ khách.

Muốn hoạt động marketing nội bộ hiệu quả cần chú ý tới hai vấn đề then chốt sau :

Mỗi nhân viên và mỗi bộ phận trong doanh nghiệp đều có vai trò như những khách hàng, những nhà cung cấp nội bộ. Muốn có marketing đối ngoại     tốt thì trước hết toàn bộ nhân viên và các bộ phận trong doanh nghiệp phải được cung cấp và nhận được dịch vụ hoàn hảo.

Cần có sự phối hợp giữa các cá nhân và các bộ phận thống nhất hành vì mục tiêu chung của doanh nghiệp.

3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động marketing.

3.1. Nhân tố vĩ mô: Khóa Luận Về Hoạt Động Marketing Du Lịch

Tất cả các doanh nghiệp đều bị ảnh hưởng bởi môi trường marketing vĩ mô. Các yếu tố này luôn điều chỉnh, thay đổi và có thể là những cơ hội cho doanh nghiệp này nhưng lại là mối đe doạ cho doanh nghiệp khác.

Các yếu tố này ngoài tầm kiểm soát của công ty, nhưng công ty có thể theo dõi, nghiên cứu để dự đoán và có hành động kịp thời. Môi trường marketing vĩ mô bao gồm: Môi trường dân số, môi trường kinh tế, môi trường tự nhiên, môi trường công nghệ, môi trường chính trị – pháp luật, môi trường văn hoá, xã hội.

3.2. Nhân tố vi mô.

Môi trường vi mô bao gồm yếu tố nội tại, bên trong của công ty; và các yếu tố bên ngoài tác động như: môi trường nội tại của công ty, các nhà cung ứng, các nhà marketing trung gian, khách hàng, các đối thủ cạnh tranh, công chúng

Sơ đồ 1.1: Các yếu tố cơ bản tác động môi trường vi mô của doanh nghiệp
Sơ đồ 1.1: Các yếu tố cơ bản tác động môi trường vi mô của doanh nghiệp

Download miễn phí

Cơ Sở Lý Luận Về Hoạt Động Marketing Du Lịch Mới Nhất cảm ơn bạn đã tin tưởng và theo dõi bài viết của luận văn Trust, chúng tôi hy vọng với những thông tin mình vừa trình bày có thể giúp cho bài khóa luận của các bạn hoàn thành một cách hoàn chỉnh nhất. Ngoài ra, chúng tôi còn chia sẻ rất nhiều bài viết với nhiều chủ đề khác nhau phục vụ cho bài báo cáo thực tập, khóa luận tốt nghiệp, mời các bạn theo dõi website để cập nhật những bài viết mới nhất.

DV viết thuê đề tài : 0917.193.864

Zalo/Tele : 0917.193.864

Chia sẻ bài viết
Share on facebook
Facebook
Share on twitter
Twitter
Share on linkedin
LinkedIn
Share on telegram
Telegram
Luận Văn Trust

Luận Văn Trust

Chúng tôi là Luận Văn Trust, công việc của tôi là tổng hợp kiến thức, nội dung và sản xuất nội dung thông tin cho website luanvantrust.com ở lĩnh vực giáo dục như tài liệu báo cáo, tài liệu luận văn, tài liệu sáng kiến kinh nghiệm.

5 1 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận

Bất cứ câu hỏi nào mà bạn muốn?

0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x