Cơ Sở Lý Luận Về Giải Quyết Tranh Chấp Quyền Sử Dụng Đất

Khóa Luận Về Giải Quyết Tranh Chấp Quyền Sử Dụng Đất

Cơ Sở Lý Luận Về Giải Quyết Tranh Chấp Quyền Sử Dụng Đất chắc hẳn các bạn đang tìm kiếm tài liệu kham thảo về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, thì bài viết này rất phù hợp với các bạn, nội dung bài viết được đội ngũ luận văn Trust kiểm chứng qua đảm bảo tính xác thực và thống nhất. Chúc các bạn có một bài khóa luận hoàn chỉnh và đạt điểm cao nhé.

Khi làm báo cáo, khóa luận, luận văn chắc hẳn các bạn sinh viên gặp một số khó khăn nhất định như không tìm được công ty, hay đề tài, không hoàn thành bài tốt, có thể liên hệ qua dịch vụ viết khóa luận tốt nghiệp của Luận Văn Trust qua Zalo/Tele: 0917.193.864

Mục lục

1. Khái Niệm, Đặc Điểm Và Phân Loại Tranh Chấp Quyền Sử Dụng Đất

1.1. Khái niệm tranh chấp quyền sử dụng đất

Cơ Sở Lý Luận Về Giải Quyết Tranh Chấp Quyền Sử Dụng Đất: Trong quan hệ pháp luật về đất đai, cũng giống như quan hệ pháp luật dân sự nói chung luôn có khả năng xuất hiện những quan điểm, ý kiến khác nhau giữa các chủ thể. Sự khác biệt này tạo ra các mâu thuẫn, bất đồng nhất định và cuối cùng được thể hiện bằng những hành động cụ thể, khi đó tranh chấp phát sinh.

Trước hết, nói về tranh chấp đất đai, đây là hiện tượng thể hiện “sự bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai” [11, tr455]. Tranh chấp về đất đai chỉ có thể phát sinh khi các chủ thể trực tiếp thông qua những hành vi nhất định của mình để thể hiện thái độ mâu thuẫn với nhau.

Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 24 Điều 3 Luật Đất đai 2013, tranh chấp đất đai được định nghĩa như sau:

“Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai”.

Theo khái niệm này, tranh chấp đất đai bao gồm tất cả những tranh chấp liên quan đến đất đai như: tranh chấp về quyền sử dụng đất, tranh chấp về quyền và nghĩa vụ phát sinh trong quá trình sử dụng đất (ví dụ như: tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng, tranh chấp về bồi thường hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất,…), tranh chấp về mục đích sử dụng đất (ví dụ như: tranh chấp về đất trồng lúa với đất nuôi tôm, tranh chấp về mục đích lối đi chung,…).

Như vậy, có thể hiểu một cách khái quát và đưa ra khái niệm đối với tranh chấp quyền sử dụng đất như sau:

“Tranh chấp quyền sử dụng đất là một dạng của tranh chấp đất đai. Đây là tranh chấp của người sử dụng đất giữa hay hoặc nhiều bên trong việc xác định chủ thể có quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật”.

Theo đó, nội dung trong phạm vi bài báo cáo tốt nghiệp này sẽ được phân tích dựa trên cách hiểu về tranh chấp quyền sử dụng đất đã được đưa ra tại khái niệm nêu trên.

Khóa Luận Về Giải Quyết Tranh Chấp Quyền Sử Dụng Đất
Khóa Luận Về Giải Quyết Tranh Chấp Quyền Sử Dụng Đất

1.2. Đặc điểm tranh chấp quyền sử dụng đất

Với bản chất là một trong các dạng phổ biến của tranh chấp đất đai, đồng thời đối tượng trong quan hệ tranh chấp là đối tượng đặc biệt – quyền sử dụng đất, tranh chấp quyền sử dụng đất có một số đặc điểm nhất định như sau:

Một là, đối tượng của tranh chấp quyền sử dụng đất là quyền sử dụng một loại tài sản đặc biệt không thuộc quyền sở hữu của các bên tranh chấp.

Theo định hướng và quan điểm quản lý của Nhà nước, đồng thời đã được ghi nhận tại Hiến pháp hiện hành cùng các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan của nước ta hiện nay, quyền sở hữu đất đai do Nhà nước là đại diện cho toàn thể nhân dân lao động thực hiện. Hay nói cách khác, Nhà nước là đại diện chủ sở hữu đối với đất đai, đất đai là thuộc sở hữu của toàn dân chứ không ghi nhận riêng đối với một chủ thể riêng biệt, bất kỳ nào. Bởi vậy, khi được đưa vào trong các giao dịch và coi như một tài sản, Nhà nước ta đã chuyển đổi dưới hình thái “quyền sử dụng đất”.

Mặc dù đây là tranh chấp về tài sản, nhưng tranh chấp này đặc biệt ở chỗ các chủ thể không có quyền sở hữu đối với tài sản này. Một hoặc các bên trong tranh chấp chỉ được ghi nhận dưới dạng quyền sử dụng.

Hai là, chủ thể tranh chấp chỉ là chủ thể sử dụng đất, không có quyền sở hữu đối với đất đai.

Như đã phân tích ở trên, đối tượng tranh chấp không thuộc quyền sở hữu của các bên tranh chấp. Chính vì vậy, chủ thể tranh chấp cũng không phải là chủ sở hữu đất đai. Tuy nhiên, theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015, ghi nhận rằng quyền tài sản là một loại tài sản [8, khoản 1 Điều 105], do vậy có thể nói rằng chủ thể tranh chấp không phải chủ sở hữu của đất đai nhưng lại là chủ sở hữu của quyền sử dụng đất.

Ba là, tranh chấp quyền sử dụng đất có ảnh hưởng đến lợi ích của các bên tham gia tranh chấp và lợi ích của Nhà nước.

Trước hết, đối với các bên tham gia tranh chấp, tranh chấp quyền sử dụng đất gắn liền với quá trình sử dụng đất của chủ thể, ảnh hưởng trực tiếp tới việc thực hiện quyền sử dụng đất của các chủ thể đó. Do vậy, lợi ích của các bên tham gia tranh chấp bị ảnh hưởng trực tiếp với sự tồn tại và phát sinh của tranh chấp quyền sử dụng đất. Bên cạnh đó, Nhà nước với vai trò là người quản lý, đại diện chủ sở hữu đối với đất đai, vì vậy khi xảy ra tranh chấp quyền sử dụng đất những nghĩa vụ của người sử dụng đất phải thực hiện đối với Nhà nước sẽ bị trì hoãn hoặc ảnh hưởng và tác động xấu, gián tiếp tới lợi ích của Nhà nước.

1.3. Phân loại tranh chấp quyền sử dụng đất

Căn cứ theo tính chất pháp lý và quan hệ pháp luật về tranh chấp quyền sử dụng đất hiện nay được ghi nhận tại Luật Đất đai 2013 có thể chia tranh chấp quyền sử dụng đất thành những loại chủ yếu như sau:

Một là tranh chấp liên quan tới việc xác định ranh giới giữa những vùng đất được phép sử dụng phát sinh giữa những người sử dụng đất. [11, tr457]

Đây là loại tranh chấp thường phát sinh do sự thiếu thống nhất, không thỏa thuận được về ranh giới xác định quyền sử dụng đất giữa các bên sử dụng đất với nhau. Bên cạnh đó, tranh chấp cũng có thể hình thành bởi việc chuyển nhượng nhiều lần giữa những chủ thể khác nhau, cho thuê, cho thuê lại hoặc xuất phát từ phía cơ quan nhà nước khi có sai sót trong quá trình đo đạc,cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Ví dụ: Bà A chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông B vào năm 2000, trong hợp đồng chuyển nhượng ghi nhận cách xác định chiều dài thửa đất là tính từ mốc lưu không đổ lại. Sau đấy ông B chuyển nhượng đất cho bà C vào năm 2020, tuy nhiên mốc lưu không sau đó đã có sự thay đổi bởi có sự tôn tạo lại về đường giao thông. Đến năm 2021 bà C xây dựng nhà trên đất và xác định mốc lưu không theo thời điểm 2020 nhưng bà A không đồng ý và cho rằng xác định như vậy là ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình bà do đất bị tính dài hơn. Tranh chấp giữa bà A và bà C là tranh chấp liên quan tới việc xác định ranh giới quyền sử dụng đất.

Hai là tranh chấp về quyền sử dụng đất trong quan hệ thừa kế. [11, tr457]

Loại tranh chấp này liên quan tới việc chia tài sản thừa kế có bao gồm quyền sử dụng đất và thường phát sinh khi người chết không để lại di chúc hoặc có để lại di chúc nhưng di chúc bị tuyên không hợp pháp (toàn bộ hoặc một phần) và các đồng thừa kế không tự thỏa thuận, thống nhất được với nhau. Trong tranh chấp này phải đảm bảo quyền sử dụng đất được coi là di sản thừa kế theo quy định của pháp luật, tức là:

(i) Phải có giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất hợp pháp của người chết như: giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời, có tên trong Sổ đăng ký ruộng đất, Sổ địa chính trước ngày 15/10/1993;…

(ii) Trường hợp quyền sử dụng đất do người chết để lại không có một trong những loại giấy tờ chứng minh nêu trên nhưng có các di sản khác như: nhà ở, kiến trúc khác gắn liền với quyền sử dụng đất; đồng thời có văn bản xác nhận rằng việc sử dụng đất của người để lại di sản là hợp pháp nhưng chưa kịp cấp sổ đỏ của UBND cấp có thẩm quyền thì cũng được coi là di sản. [3, Mục 1 Phần II]

Ví dụ: Ông A có hai người con là anh B (30 tuổi) và chị C (14 tuổi). Năm 2015, ông A chết di chúc để lại nói rằng chuyển hết số di sản, trong đó có bao gồm quyền sử dụng đất và nhà ở gắn liền với đất mà anh B và chị C đang cùng sinh sống cho anh B. Chị C không được hưởng bất kỳ di sản nào. Không đồng ý về vấn đề này, chị C cho rằng nội dung di chúc không phù hợp với quy định của pháp luật nên đã khởi kiện lên Tòa án yêu cầu chia lại di sản. Tranh chấp giữa chị C và anh B là tranh chấp quyền sử dụng đất trong quan hệ thừa kế.

Ba là tranh chấp về quyền sử dụng đất trong quan hệ ly hôn giữa vợ và chồng. [11, tr457]

Đây là loại tranh chấp quyền sử dụng đất liên quan đến việc chia tài sản khi vợ chồng ly hôn. Theo đó, vợ và chồng khi ly không không tự thỏa thuận, thống nhất được về vấn đề phân chia tài sản chung là quyền sử dụng đất, cụ thể đây là tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân do: chuyển nhượng, được Nhà nước giao đất, thừa kế, được tặng cho,…

Ví dụ: Anh A và chị B ly hôn và có tranh chấp về việc phân chia tài sản chung là quyền sử dụng đất và tài sản trên đất (nơi hai vợ chồng đang ở hiện nay). Chị B cho rằng đó là tài sản anh A và chị B được bố mẹ của anh A chia cho đồng thời cùng nhau xây dựng khi hai người đã lấy nhau. Tuy nhiên anh A lại nói rằng đó là đất của bố mẹ anh A và chỉ cho anh A cùng chị B ở nhở trên đó. Tranh chấp phát sinh giữa anh A và chị B là tranh chấp quyền sử dụng đất trong quan hệ ly hôn giữa vợ và chồng.

Bốn là, tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất. [11, tr457]

Đúng như tên gọi, loại tranh chấp này liên quan đến việc người có quyền sử dụng đất cho mượn, cho thuê, cho ở nhờ quyền sử dụng đất nhưng người mượn, người thuê, người ở nhờ không chịu trả lại. Hay trường hợp khác khi quyền sử dụng đất được chia, cấp cho người khác theo chính sách pháp luật của Nhà nước tại từng thời kỳ và người có quyền sử dụng đất  khởi kiện để đòi lại.

Ví dụ: Anh A và chị B là anh em ruột. Vì lý do làm ăn xa nhà không sử dụng đến thửa đất ở nhà, anh A cho chị B mượn để chăn nuôi gia súc và trồng cây ăn quả với điều kiện hằng năm chị trích một phần để đóng thuế sử dụng đất theo quy định của Nhà nước thay anh A. Tuy nhiên trong thời gian ở nhà, chị B lại xây dựng nhà ở trên thửa đất và giao bán thửa đất mà không được sự đồng ý của anh A. Anh A khởi kiện chị B ra Tòa để đòi lại quyền sử dụng đất của mình. Như vậy tranh chấp giữa anh A và chị B là tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất.

Năm là, “tranh chấp giữa đồng bào dân tộc địa phương với đồng bào đi xây dựng vùng kinh tế mới, giữa đồng bào địa phương với các nông trường, lâm trường và các tổ chức sử dụng đất khác”. [11, tr458]

Tranh chấp này thường xảy ra khi có sự di dân tự do của người dân tới nơi ở mới, mặc dù chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng vẫn thực hiện phá rừng, lấn chiếm dẫn tới tranh chấp với đồng bào dân tộc tại vùng sở tại. Hay tranh chấp giữa các nông trường, lâm trường và tổ chức sử dụng đất khác với người dân địa phương về quyền sử dụng đất cũng liên quan tới việc tự ý nhận phần đất không thuộc quyền sử dụng của mình là của mình giữa cách chủ thể.

Ví dụ: Nông trường A được giao quyền sử dụng đất tại xã X. Vì lý do quản lý lỏng lẻo dẫn tới việc người dân tại xã X xây dựng, lấn chiếm và tự nhận quyền sử dụng đất đối với một phần đất thuộc quyền sử dụng của nông trường A. Nông trường A khởi kiện ra tòa. Tranh chấp giữa nông trường A và người dân xã X là tranh chấp giữa đồng bào địa phương với các nông trường.

XEM THÊM ==>  Bộ Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Tranh Chấp Đất Đai và 9 Bài Mẫu Điểm Cao

2. Nguyên Nhân Và Tác Động Của Tranh Chấp Quyền Sử Dụng Đất

2.1. Nguyên nhân phát sinh tranh chấp quyền sử dụng đất

Mỗi tranh chấp quyền sử dụng đất phát sinh trên thực tế có thể bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau và không hoàn toàn giống trong các trường hợp. Tuy nhiên, khi xét về bản chất thực tế, những tranh chấp này đều xuất phát từ những yếu tố chủ quan, khách quan nhất định. Để xác định được nguyên nhân chính xác của việc tranh chấp quyền sử dụng đất bên cạnh cơ sở thực trạng quyền sử dụng đất còn phải dựa trên việc đối chiếu với đường lối, chính sách của Nhà nước và quy định pháp luật tại thời điểm đó.

Từ thực tiễn vấn đề tranh chấp quyền sử dụng đất phát sinh rút ra được một số nguyên nhân chính yếu như sau:

– Những nguyên nhân khách quan: Khóa Luận Về Giải Quyết Tranh Chấp Quyền Sử Dụng Đất

Nguyên nhân khách quan của tranh chấp quyền sử dụng đất phát sinh chủ yếu từ yếu tố và tác động của lịch sử cùng những chính sách về phân chia quyền sử dụng đất thay đổi nhiều lần qua các thời kỳ trước đây tại nước ta. Có thể kể đến một số giai đoạn và yếu tố quan trọng như:

Thứ nhất, chính sách cải cách ruộng đất của Đảng và Chính phủ tiến hành tại miền Bắc sau Cách mạng tháng Tám và sau năm 1953.

Nội dung của chính sách được đưa ra tại miền Bắc đã xóa bỏ chế độ chiếm hữu ruộng đất trong chế độ phong kiến, thực dân, đồng thời nông quan được xác lập quyền sở hữu ruộng đất. Đến năm 1960, ruộng đất sau khi được xác lập quyền sở hữu cho nông dân lại được đưa vào làm tư liệu sản xuất chung qua con đường hợp tác hóa nông nghiệp. Khi đó, ruộng đất bắt đầu chuyển sang thuộc sở hữu tập thể.

Thứ hai, chính sách chia cấp ruộng đất cho nông dân và chính sách cải cách điền địa tại miền Nam vào thời kỳ 1949 – 1950, 1954 và 1957.

Sau hai cuộc kháng chiến, tại miền Nam, Chính phủ đã tiến hành liên tục nhiều chính sách cải cách ruộng đất. Điều này cũng phần nào ảnh hưởng và tạo ra diễn biến phức tạp về quyền sử dụng đất. Trong hai thời điểm, năm 1949 – 1950 và năm 1954, tại miền Nam hai lần diễn ra việc chia cấp ruộng đất cho nông dân. Tuy nhiên chỉ một thời gian ngắn sau đó, vào năm 1957, chính sách cải cách điền địa lại được ngụy quyền Sài Gòn triển khai. Theo đó, những thành quả trước đó của cách mạng tạo ra đều bị xóa bỏ bởi việc “truất hữu” được ban hành thực hiện, tác động lớn tới quyền sở hữu ruộng đất của người dân.

Thứ ba, chính sách hợp tác hóa nông nghiệp, xây dựng nông trường, lâm trường, trại trạm sau năm 1975.

Sau khi đất nước thống nhất, Nhà nước ta đã tiến hành chiến dịch hợp tác hóa nông nghiệp. Tuy nhiên, cần phải thừa nhận rằng những tổ chức này (nông trường, lâm trường, trại trạm) chiếm nhiều diện tích sử dụng đất trên cả nước nhưng hiệu quả hoạt động lại đạt được lại không cao. Trong giai đoạn này, nước ta lại có hai lần điều chỉnh ruộng đất lớn vào năm 1978 – 1979 và 1982 – 1983 với chính sách chia đất bình quân. Thời điểm này, các vấn đề về quyền sử dụng đất (ranh giới, mục đích, diện tích sử dụng đất) liên tục có sự thay đổi, xáo trộn.

Thứ tư, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Hiện nay, đất nước ta đang trong giai đoạn bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì vậy, nguồn đất được thu hồi để sử dụng cho hoạt động xây dựng đô thị, kết cấu hạ tầng ngày càng tăng. Điều này làm quỹ đất sử dụng cho hoạt động canh tác có sự sụt giảm lớn. Bên cạnh đó, cơ chế thị trường cũng là nguyên nhân dẫn tới sự gia tăng của giá đất tạo ra áp lực lớn và sự cạnh tranh trong xã hội.

Chính những điều này là nguyên nhân khách quan làm phát sinh những tranh chấp ngày càng phức tạp, đa dạng về quyền sử dụng đất giữa các chủ thể trong xã hội. [11, tr459-tr460]

– Những nguyên nhân chủ quan –Khóa Luận Về Giải Quyết Tranh Chấp Quyền Sử Dụng Đất

Bên cạnh những nguyên nhân liên quan đến yếu tố lịch sử, bị tác động bởi ngoại cảnh khách quan, hiện tượng tranh chấp quyền sử dụng đất diễn ra còn xuất phát bởi những nguyên nhân từ nội tại như cơ chế quản lý; chính sách, hệ thống pháp luật; năng lực quản lý; …Cụ thể từng nguyên nhân sẽ được phân tích sau đây:

Thứ nhất, về cơ chế quản lý.

Mặc dù nhà nước ta đã có những tiến bộ, đổi mới trong quan động quản lý đất đai, tuy nhiên trên thực tế vẫn còn tồn tại những yếu kém, chưa phù hợp với yêu cầu thực tế của xã hội.

Trước hết, trong thời kỳ áp dụng cơ chế quản lý tập trung, kế hoạch hóa cao độ, việc quản lý đất đai tại nước ta được phân công, phân cấp cho nhiều ngành khác nhau, dẫn tới thiếu thống nhất, chặt chẽ trong công tác quản lý.

Bước sang cơ chế thị trường, việc quản lý đất đai được được thống nhất theo quy hoạch chung, có sự rõ ràng trong hoạt động phân công, phân cấp và xác định trách nhiệm đối với từng cơ quan. Tuy nhiên, một số bất cập vẫn còn tồn tại trong cơ chế quản lý dẫn tới tranh chấp về quyền sử dụng đất phát sinh trở nên phức tạp hơn như:

(i) Chưa có sự đồng bộ, hoàn chỉnh, thống nhất trong hồ sơ địa chính. Với việc thiếu căn cứ pháp lý và thực tế xác định quyền sử dụng đất chưa rõ ràng dẫn tới khó khăn trong việc xác lập quyền sử dụng đất hợp pháp, từ đó làm phát sinh các mâu thuẫn có thể dẫn tới tranh chấp.

(ii) Quy hoạch sử dụng đất chưa được áp dụng một cách triệt để, nghiêm túc, vẫn còn những kẽ hở để các chủ thể sử dụng đất không hợp lý nhưng lại khó bị phát hiện.

(iii) Một số địa phương ban hành văn bản pháp lý về quyền sử dụng đất không rõ ràng, hoặc thậm chí sai lệch hoàn toàn với chủ trương của nhà nước dẫn tới sự hiểu lầm trong quần chúng làm gia tăng các yêu cầu khởi kiện liên quan đến quyền sử dụng đất.

Thứ hai, về đường lối chính sách của nhà nước và hệ thống pháp luật quốc gia về đất đai.

Các chính sách về đất đai và liên quan đến đất đai tại nước ta vẫn còn thiếu tính đồng bộ, không rõ ràng và vẫn tiếp tục biến động. Không những vậy, việc áp dụng các chính sách về đất đai vẫn tùy tiện tạo ra sự chênh lệch, bất hợp lý trong phân chia ruộng đất, bỏ hoang đất đai nhiều và hiệu quả sử dụng không cao. Bên cạnh đó, những quy định pháp luật nhằm hướng dẫn, giải đáp vướng mắc tồn tại hoặc hướng dẫn các quy định pháp luật đã ban hành được ban hành vẫn còn chậm, chưa đảm bảo tiến độ với thực tế áp dụng tạo ra những bất cập trong công tác áp dụng.

Ngoài ra, không thể không kể đến việc các đơn vị hành chính trong Nhà nước được tách, chia, thành lập mới, nhập nhiều năm liên tục tạo ra cơ chế quản lý nhà nước về đất đai thiếu đồng nhất, không rõ ràng, dẫn tới sự gia tăng của tình trạng tranh chấp về quyền sử dụng đất trong xã hội.

Thứ ba, về công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật.

Tại nước ta, việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật tới quần chúng nhân dân chưa được coi trọng, nhiều văn bản pháp luật về quyền sử dụng đất chưa tới được với người dân. Có thể thấy rằng, đa phần người tiếp cận văn bản quy phạm pháp luật là người làm việc trong những ngành nghề có liên quan trực tiếp, người dân chỉ hiểu và nắm được những quy định này sau khi vi phạm hay có tranh chấp xảy ra.

Thứ tư, về chất lượng cán bộ, công chức thực hiện công vụ liên quan đến quyền sử dụng đất.

Chất lượng cán bộ, công chức thực hiện quản lý đất đai vẫn chưa đồng đều. Thực tế vẫn tồn tại một bộ phận cán bộ, công chức thiếu gương mẫu, không có trách nhiệm trong việc thực hiện công việc, lạm dụng vị trí, chức quyền để tư lợi cho bản thân tạo ra những bất ổn trong xã hội.

Nhiều cán bộ không thực sự tuân thủ quy định pháp luật trong việc điều chỉnh, quản lý đất đai, đặc biệt liên quan đến quyền sử dụng đất, tạo ra những mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh, ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của người dân. Tuy nhiên, những cán bộ, công chức này lại không được xử lý khi phát hiện sai sót, điều này tạo ra những tiền đề, cơ sở xấu để những người khác tiếp tục thực hiện và lan rộng hành vi tiêu cực này.

Nhìn chung, cần phải nhìn nhận rằng, tranh chấp quyền sử dụng đất phát sinh tại mỗi địa phương, mỗi vùng còn dựa trên những nguyên nhân đặc thù xuất phát từ thực tế áp dụng và phong tục tập quán riêng. Chinh vì vậy, bên cạnh những nguyên nhân chính kể trên, khi xem xét, đánh giá cần phải tìm hiểu, đi sâu và đặc tính vùng miền, cá thể hóa như đã nêu để có thể nắm được một cách sâu sắc và chính xác nhất vấn đề đang diễn ra.

2.2. Tác động của tranh chấp quyền sử dụng đất đối với đời sống kinh tế – xã hội

Sự tồn tại của tranh chấp nói chung và tranh chấp quyền sử dụng đất nói riêng gây ra nhiều hệ luỵ nghiêm trọng và ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn trong xã hội.

Với bản chất tranh chấp phát sinh là sự tồn tại của của những mâu thuẫn trong đời sống xã hội giữa các chủ thể về quyền sử dụng đất. Trong đó, quyền sử dụng đất tại nước ta là một loại tài sản có giá trị kinh tế cao được coi trọng từ xưa đã được ví như là “tấc đất, tấc vàng” để nói lên giá trị của đất đai. Khi liên quan đến giá trị kinh tế, lại là giá trị cao thì mâu thuẫn vốn dĩ đã khó giải quyết sẽ trở nên ngày càng gay gắt và căng thẳng hơn.

Khi xảy ra mâu thuẫn, các bên tranh chấp khó có thể giữ được hoà khí, bình tĩnh, nhiều trường hợp hình thành suy nghĩ cực đoan và gây ra những hành vi vi phạm pháp luật chỉ với mục đích trả thù, dằn mặt đối phương. Trên thực tế đã xảy ra nhiều trường hợp từ tranh chấp đơn thuần về quyền sử dụng đất đã dẫn tới những vụ nhẹ thì vụ ẩu đả, đánh nhau nguy hiểm hơn thì giết người, phóng hoả.

Ví dụ một số vụ án diễn ra trong thời gian gần đây có liên quan đến tranh chấp quyền sử dụng đất như: Khóa Luận Giải Quyết Tranh Chấp Quyền Sử Dụng Đất

(1) Ông Sùng Sái Dơ sinh có tranh chấp đất nương với Sùng A Thò (hàng xóm). Do mâu thuẫn không được giải quyết, ngày 11/2/2017, Sùng A Thò đã dùng dao chém tử vong 3 người trong gia đình ông Sùng Sái Dơ là ông Sùng Sái Dơ, bà Vừ Thị Dợ (vợ ông Dơ) và Sùng A Hồ (con trai ông Sùng Sái Dơ). Sau khi gây án Sùng A Thò đã ăn lá ngón để tự tử. [9]

(2) Vụ án thứ hai tại tỉnh Yên Bái, ngày 28/4/2019, Nguyễn Văn Mạc dùng kiếm chém tử vong hai người vì mâu thuẫn phát sinh từ vấn đề tranh chấp đất đai. [10]

Theo thống kê của cơ quan chức năng, tại tinh Điện Biên từ năm 2016 tới năm 2020 “đã có hơn 40 vụ tranh chấp phức tạp về đất đai gây chết 4 người tại bản Ma Lù Thàng, xã Huổi Lèng, huyện Mường Chà; bị thương nặng 6 người tại bản Long Dạo, xã Si Pa Phìn, huyện Nậm Pồ”.[10]

Hay theo thống kê khác về tình hình tại tỉnh Yêu Bái, từ năm 2018 tới 2020 “đã có 16 vụ án mạng, trong đó nhiều vụ do tranh chấp đất đai, chủ yếu ở khu vực nông thôn, miền núi” [10].

Vấn đề đáng nói hơn nữa là những tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất thường kéo dài trong khoảng thời gian rất lâu vì vậy nhưng ảnh hưởng của nó tác động nghiêm trọng tới đời sống xã hội và nhân dân trong khu vực. Bên cạnh đó, với tình trạng tranh chấp diễn ra trong thời gian dài cũng sẽ làm trì trệ hoạt động sản xuất kinh doanh tại địa phương nói chung và đặc biệt là việc sử dụng đất đai vào hoạt động kinh tế nói riêng.

Như vậy, sự tồn tại của tranh chấp quyền sử dụng đất tạo ra những tác động tiêu cực tới quyền của người có quyền sử dụng đất, quyền của Nhà nước mà còn ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống tinh thần và an ninh trật tự, kinh tế của người dân trong khu vực và toàn xã hội. Bởi vậy, khi tranh chấp tồn tại, yêu cầu về việc giải quyết tranh chấp trở thành một điều tất yếu và cần thiết nhằm đảm bảo sự bình ổn và phát triển của xã hội.

3. Quan Niệm Về Giải Quyết Tranh Chấp Quyền Sử Dụng Đất, Các Yếu Tố Chi Phối Việc Giải Quyết Tranh Chấp Quyền Sử Đất; Quan Niệm Về Pháp Luật Giải Quyết Tranh Chấp Quyền Sử Dụng Đất

3.1. Quan niệm về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất

Việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất là yêu cầu tất yếu khách quan trong một xã hội có tồn tại tranh chấp quyền sử dụng đất. Với ý nghĩa là một nội dung quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước đối với đất đai, giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất được hiểu là hoạt động của cơ quan có thẩm quyền thực hiện trên cơ sở pháp luật nhằm tìm ra các giải pháp có tính đúng đắn để giải quyết những bất đồng, mâu thuẫn liên quan đến quyền sử dụng đất tồn tại giữa các bên.

Thông qua hoạt động giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất được bảo vệ, phục hồi và bên vi phạm phải gánh chịu những hậu quả từ hành vi của họ gây ra. Bên cạnh đó, khi những mâu thuẫn tồn tại được giải quyết còn góp phần duy trì ổn định trật tự an ninh xã hội, tạo điều kiện, cơ sở thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội.

3.2. Các yếu tố chi phối việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất

Trong xã hội đang ngày càng phát triển, sự hội nhập về kinh tế ngày một gia tăng dẫn tới các quan hệ pháp luật đất đai và những tranh chấp quyền sử dụng đất cũng trở nên đa dạng và phức tạp hơn. Tại môi trường đó, việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất cũng vì thế mà chịu sự chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau, đòi hỏi phải đảm bảo tuân thủ trong thực tiễn giải quyết. Những yếu tố này cũng chính là nguyên tắc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất mà thực tiễn tại nước ta đặt ra sau đây:

Một là,đảm bảo đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là người đại diện của chủ sở hữu” [11, tr407].

Đây là một nguyên tắc cơ bản nhất, cũng là yếu tố có ảnh hưởng, chi phối lớn nhất trong hoạt động giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất. Cụ thể, các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình chỉ là những chủ thể được Nhà nước giao cho quyền sử dụng đất, không có quyền sở hữu đất đai. Nguyên tắc này đã được ghi nhận và khẳng định cụ thể và rõ ràng trong Hiến pháp của nước ta hiện nay “Đất đai là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý” [6, Điều 53]; đồng thời được thể hiện xuyên suốt tại hệ thống quy phạm pháp luật về đất đai và giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của nước ta.

Bởi vậy, khi xem xét giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất phải đảm bảo dựa trên cơ sở đất đai thuộc sở hữu toàn dân, không phải thuộc sở hữu của một chủ thể đơn nhất nào, bảo vệ quyền lợi của người đại diện chủ sở hữu – là Nhà nước.

Hai là,đảm bảo lợi ích của người sử dụng đất, nhất là lợi ích kinh tế, khuyến khích việc tự hoà giải, thương lượng trong nội bộ quần chúng nhân dân” [11, tr408].

Căn cứ theo quy định tại Luật Đất đai 2013 thấy được tinh thần đổi mới  trong tư tưởng tham gia điều hành của Nhà nước đối với các mối quan hệ xã hội về đất đai. Theo đó, một trong những nguyên tắc quan trọng của Luật Đất đai là tôn trọng quyền của người sử dụng đất và tạo điều kiện để họ được thực hiện những quyền đó một cách tối đa. Về bản chất và dựa trên thực tế chứng minh, nếu không bảo đảm được lợi ích của người sử dụng đất thì khó đạt được hiệu quả sử dụng đất như mong muốn. Đó cũng chính là nguyên tắc cơ bản được thực hiện trong quá tình giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất.

Việc bảo đảm lợi ích của người sử dụng đất còn được thể hiện ở sự tôn trọng đối với quyền định đoạt của các chủ thể khi giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất. Theo đó, khi phát sinh tranh chấp về quyền sử dụng đất, các bên được khuyến khích cùng nhau bàn bạc, thoả thuận, thương lượng thông qua hoạt động hoà giải. Toà án chỉ thụ lý việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi thủ tục hoà giải đã được tiến hành nhưng không đạt được sự đồng thuận cần thiết từ phía các bên.

Ba là, đảm bảo “nhằm mục đích ổn định tình hình chính trị, kinh tế – xã hội, gắn việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất với việc tổ chức lại sản xuất” [11, tr408].

Với những ảnh hưởng, tác động tiêu cực do tranh chấp quyền sử dụng đất mang lại đối với đời sống kinh tế xã hội, trật tự – an ninh, việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất cũng phải nhằm mục tiêu bình ổn các quan hệ xã hội.

3.3. Quan niệm về pháp luật giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất

Pháp luật giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất là hệ thống các quy phạm pháp luật của nước ta liên quan tới việc giải quyết những tranh chấp về quyền sử dụng đất phát sinh trong đời sống xã hội giữa các chủ thể.

Với sự tham gia của nhà nước trong việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất được cụ thể quá dưới hệ thống quy định pháp luật nhất định là biện pháp hữu hiệu để phát huy vai trò của pháp luật đất đai trong đời sống xã hội. Pháp luật giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất là công cụ hữu hiệu giúp Nhà nước điều chỉnh các quan hệ đất đai theo hướng phù hợp với lợi ích, định hướng của Nhà nước, của xã hội và của người sử dụng đất. Đồng thời, qua đó giáo dục ý thức thượng tôn pháp luật của nhân dân trong việc ngăn ngừa những vi phạm pháp luật có thể xảy ra khác.

Sự ra đời của hệ thống pháp luật giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất là yêu cầu cần thiết và cấp thiết trong xã hội giúp thực thi và đạt được những giá trị của việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất. Đồng thời, qua những quy định này càng khẳng định và thể hiện được vai trò của Nhà nước trong việc đại diện quyền sử dụng đất, của người quản lý quyền sử dụng đất tại nước ta.

XEM THÊM ==> Trọn bộ 50 bài Luận Văn Giải Quyết Tranh Chấp Đất Đai, Điểm Cao

4. Căn Cứ Đánh Giá Hiệu Quả Và Các Yếu Tố Quyết Định Hiệu Quả Của Việc Giải Quyết Tranh Chấp Quyền Sử Đất Tại Tòa Án Nhân Dân

4.1. Căn cứ đánh giá hiệu quả của việc giải quyết các vụ tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân

Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân là một trong những hình thức giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất được pháp luật ghi nhận. Theo đó, Tòa án nhân dân với vai trò là một cơ quan nhà nước có chức năng giải quyết tranh chấp và được Luật Đất đai ghi nhận thẩm quyền đối với giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất.

Trong quá trình quản lý nhà nước về đất đai, việc theo dõi và đánh giá hiệu quả của công tác giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất cũng là một trong những yêu cầu quan trọng được đặt ra. Theo đó, cần xác định được tiêu chí, căn cứ nhất định mới có cơ sở vững chắc để đánh giá kết quả của công tác này, từ đó đưa ra được những yêu cầu hoàn thiện, các kiến nghị có tính khoa học, lý luận và thực tiễn để nâng cao hiệu quả của hoạt động xét xử tại Tòa án về quyền sử dụng đất. Một số căn cứ cơ bản để đánh giá như sau:

Một là, tỷ lệ hoàn thành việc giải quyết các vụ tranh chấp quyền sử dụng đất so với tổng số vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất đã thụ lý.

Thông qua số liệu này có thể đánh giá được hiệu quả của công tác xét xử tại Tòa án, cụ thể tỷ lệ đưa ra càng cao chứng tỏ việc hoàn thành giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án càng nhiều. Hay nói cách khác, số vụ án được Tòa án thụ lý và giải quyết xong nhiều chứng tỏ công tác giải quyết tranh chấp có hiệu quả thì mới đẩy nhanh được tiến độ giải quyết như vậy.

Hai là, tỷ lệ số vụ tranh chấp quyền sử dụng đất được giải quyết đúng hạn theo quy định của pháp luật so với số vụ tranh chấp quyền sử dụng đất được Tòa án thụ lý.

Trong hoạt động xét xử tại Tòa án, vì nhiều lý do khác nhau, có nhiều trường hợp không đáp ứng, tuân thủ quy định pháp luật về thời hạn giải quyết. Điều này dẫn tới nhiều hậu quả tiêu cực, tác động trực tiếp tới quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự trong vụ án tranh chấp và ảnh hưởng tới lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Tòa án. Chính bởi vậy, việc giải quyết tranh chấp dân sự nói chung và tranh chấp quyền sử dụng đất nói riêng của Tòa án đặt ra yêu cầu cần phải giải quyết và thực hiện đúng theo thời hạn của pháp luật về tố tụng. Tỷ lệ số vụ án được giải quyết đúng thời hạn quy định càng cao thì hiệu quả của công tác giải quyết tranh chấp tại Tòa án càng lớn.

Ba là, số lượng vụ án có kết quả hòa giải thành trong quá trình giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án.

Công tác hòa giải tại Tòa án giúp các đương sự có thể thỏa thuận với nhau và đưa ra những giải pháp giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, loại bỏ những xung đột nhanh chóng, tiết kiệm thời gian công sức cho các bên tranh chấp so với việc tổ chức phiên tòa. Như đã phân tích ở trên, đồng thời xét từ thực tế xã hội, Nhà nước ta khuyến khích việc giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải. Do đó, nếu tỷ lệ vụ tranh chấp quyền sử dụng đất được hòa giải thành tại Tòa án càng cao thì hiệu quả công tác giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của Tòa án càng tốt.

Bốn là, tỷ lệ bản án, quyết định của Tòa án về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất bị sửa, hủy so với tổng số bản án, quyết định của Tòa án giải quyết các tranh chấp này.

Tại nước ta, hàng năm ngành Tòa án thường tổ chức công tác đánh giá chất lượng, hiệu quả hoạt động, công tác xét xử nói chung dựa trên tỷ lệ bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị và bị tòa phúc thẩm sửa, hủy. Nếu tỷ lệ các bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị và bị Tòa án phúc thẩm sửa đổi, hủy càng thấp chứng tỏ rằng kết quả nội dung bản án đưa ra đã phù hợp với quy định của pháp luật, không có thiếu sót hay sai lầm gì trong quá trình giải quyết tranh chấp.

Điều này cũng được áp dụng tương tự đối với những bản án, quyết định tại cấp phúc thẩm bị khiếu nại, kháng nghị theo trình tự, thủ tục giám đốc thẩm  và bị giám đốc thẩm hủy.

Bởi vậy, nếu tỷ lệ này càng thấp chứng tỏ hoạt động giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của Tòa án càng có hiệu quả.

Năm là những tác động của bản án, quyết định của Tòa án giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất đến xã hội.

Phản ứng của xã hội cũng được coi là một trong những căn cứ xác đáng để đánh giá tính phù hợp và chất lượng bản án, quyết định của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất. Theo đó, với nguyên tắc xét xử công khai, các phán quyết được Tòa án đưa ra đều có thể được xã hội tiếp cận thông qua các hình thức truyền đạt thông tin khác nhau. Pháp luật là đại diện cho tư tưởng, quan điểm của đông đảo quần chúng nhân dân, thể hiện đặc trưng xã hội, dân tộc, vùng miền một cách chung nhất. Chính bởi vậy nếu các bản án, quyết định của Tòa án về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất bị đông đảo dư luận xã hội phản ứng tiêu cực, lên án, chứng tỏ bản án, quyết định đó chưa hợp lòng người cần phải được xem xét lại. Điều này cũng có thể xem là cơ sở để khẳng định hiệu quả hoạt động giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của Tòa án chưa thực sự cao.

4.2. Các yếu tố quyết định hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân

Với sự phát sinh ngày càng nhiều và phức tạp của các tranh chấp quyền sử dụng đất đã có những ảnh hưởng, tác động tiêu cực không nhỏ đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Bởi vậy, việc giải quyết tốt các tranh chấp đất đai là một mục tiêu lớn được đặt ra. Tuy nhiên, để tìm ra được cơ chế phù hợp, hiệu quả trong việc giải quyết tranh chấp thì cần hiểu và xác định được những yếu tố quyết định hiệu quả của hoạt động giải quyết tranh chấp này.

Căn cứ trên cơ sở lý luận và đánh giá từ thực tiễn có thể rút ra được một số yếu tố chủ yếu có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả của hoạt động giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân như sau:

Một là, các yếu tố liên quan đến hoạt động lập pháp.

Hoạt động lập pháp là tiền đề cơ sở, nền tảng cơ bản tạo ra hệ thống pháp lý điều chỉnh hoạt động giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án. Chính bởi vậy, đây là yếu tố quan trọng, có vai trò quyết định đối với hiệu quả của công tác giải quyết tranh chấp này. Việc giải quyết tranh chấp nói chung và giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất nói riêng cần phải có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh từ pháp luật về tố tụng cho tới pháp luật về nội dung (cụ thể là pháp luật về quyền sử dụng đất). Hệ thống pháp luật đó cần phải bao hàm đầy đủ, cụ thể những quy định pháp luật cơ bản, cần thiết giúp Tòa án có cơ sở để giải quyết nhanh chóng, chính xác, có hệ thống các tranh chấp xảy ra và giảm thiểu tối đa tình trạng tùy tiện trong công tác xử lý các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân.

Hai là, các yếu tố liên quan đến hoạt động hướng dẫn thi hành pháp luật.

Để tăng cường và nâng cao hiệu quả của công tác giải quyết tranh chấp quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, việc hướng dẫn thi hành pháp luật cũng cần phải được đảm bảo và quan tâm. Theo đó, thông qua những văn bản, nội dung hướng dẫn kịp thời quy định pháp luật mới ban hành; hay giải đáp, hướng dẫn các vướng mắc còn tồn tại khi Tòa án nhân dân địa phương có yêu cầu, Tòa án sẽ cơ sở để hiểu và áp dụng pháp luật một cách chính xác, đúng đắn với quan điểm lập pháp đề ra. Đây cũng là một trong những điều kiện rất quan trọng bảo đảm cho các Tòa án kịp thời, thống nhất trong cách hiểu và áp dụng đúng pháp luật trong hoạt động xét xử, đồng thời giúp đưa pháp luật đi vào sâu hơn trong thực tế cuộc sống.

Ba là, các yếu tố liên quan đến hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ.

Khi xã hội ngày càng phát triển kéo theo sự gia tăng, tính đa dạng của các mối quan hệ tranh chấp quyền sử dụng đất. Theo thực tiễn xét xử có thể thấy được tính chất phức tạp ngày càng cao của loại vụ tranh chấp này. Sự phức tạp được biểu hiện từ hình thức tranh chấp, chủ thể tham gia tranh chấp cho đến tác động của tranh chấp tới đời sống xã hội. Trong đặc điểm xã hội đó, yêu cầu về chuyên môn nghiệp vụ đối với các cán bộ Tòa án cũng được đòi hỏi cao hơn, không chỉ dừng lại ở việc nắm vững các quy định pháp luật về tố tụng dân sự mà còn phải có những kỹ năng, chuyên môn liên quan khác. Điều này tác động trực tiếp đến chất lượng của các bản án, quyết định được ban hành bởi đội ngũ cán bộ.

Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cũng cần chú trọng việc trau dồi, hướng dẫn về kỹ năng, cập nhật thường xuyên, liên tục và kịp thời các quy định pháp luật mới mà trước hết là những quy định pháp luật liên quan đến quyền sử dụng đất. Thông qua đó, cán bộ Tòa án sẽ có được nền tảng tri thức cần thiết giúp nâng cao hiệu quả của công tác giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất hiện nay.

5. Lược Sử Hình Thành Và Phát Triển Của Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Quyền Sử Dụng Đất Ở Nước Ta

5.1. Các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất trước khi có Luật Đất đai năm 2013

Hệ thống các văn bản pháp luật về đất đai của nước ta được ban hành kể từ năm 1945 khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa được thành lập cho tới trước thời điểm Luật Đất đai 2013 ra đời được coi là một hệ thống pháp luật mang tính phức tạp với nhiều giai đoạn lịch sử thay đổi, phát triển và chịu ảnh hưởng bởi nhiều chính sách khác nhau được áp dụng ở cả hai miền Nam Bắc của đất nước.

Trong giai đoạn trước năm 1980 (trước khi Hiến pháp 1980 ra đời), những quy định về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, đặc biệt là liên 1uan đến thẩm quyền giải quyết chưa rõ ràng, cụ thể. Trừ các quy định liên quan đến giải quyết tranh chấp đất bãi sa bồi (đất canh tác), những nội dung khác đều thiếu quy định để áp dụng.

Ở thời điểm này, việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất chủ yếu được do Ủy ban hành chính cấp xã thực hiện, cơ quan tư pháp (Tòa án) chỉ tham gia giải quyết tranh chấp đối với “hoa màu trên đất bãi sa bồi”

Bước sang giai đoạn từ năm 1980 cho đến trước năm 1993. Trong giai đoạn này, hai văn bản pháp luật lớn được ban hành là Hiến pháp 1980 và Luật Đất đai 1987 tạo ra một phần cơ sở pháp lý điều chỉnh liên quan đến các hoạt động về đất đai. Tại giai đoạn này, quyền sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý đối với đất đai đã được ghi nhận tại văn bản pháp luật. Bên cạnh đó, một số văn bản pháp luật đã được ban hành nhằm giải quyết các vấn đề cấp bách về ruộng đất, từ đó tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất trong thời kỳ này. Trong thời điểm này, Tòa án đã được bước đầu đề cập đến vai trò trong hoạt động giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tuy nhiên vẫn còn hạn chế khi giới hạn ở “tranh chấp về nhà ở, vật kiến trúc khác hoặc cây lâu năm gắn liền với quyền sử dụng đất, còn việc toà án có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất chưa được đề cập đến”.

Tiếp theo, đến giai đoạn từ khi Luật Đất đai 1993 được ban hành cho đến năm 2004. Với sự ra đời của Luật Đất đai 1993, nhiều quy định pháp luật mới công nhận, mở rộng quyền của người sử dụng đất đã ra đời: quyền chuyển đổi, quyền chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, thừa kế quyền sử dụng đất. Có thể nói, Luật Đất đai 1993 đã đánh dấu một bước phát triển, là cơ sở để hoàn thiện cơ chế quản lý Nhà nước về đất đai. Thông qua đó, tình trạng bao cấp về đất đai cũng được xóa bỏ mà thay vào đó là những cơ chế đảm bảo việc sử dụng đất đai đúng mục đích, có hiệu quả. Nhiều văn bản pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất cũng được ban hành nhằm hoàn chỉnh thêm các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu đối với tình hình mới tại nước ta lúc bấy giờ.

Sang tới giai đoạn từ khi Luật Đất đai 2003 có hiệu lực thi hành cho tới trước năm 2014. Luật Đất đai 2003 có hiệu lực thi hành đã mở rộng hơn rất nhiều về thẩm quyền giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của Tòa án nhân dân các cấp. Tuy nhiên, thực tế thi hành vẫn phát sinh nhiều tồn tại, vướng mắc trong quy định liên quan đến giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, có những vấn đề pháp lý phát sinh nhưng lại chưa có luật điều chỉnh cụ thể dẫn tới lúng túng, không thống nhất trong hoạt động thực tiễn.

Cơ Sở Lý Luận Về Giải Quyết Tranh Chấp Quyền Sử Dụng Đất
Cơ Sở Lý Luận Về Giải Quyết Tranh Chấp Quyền Sử Dụng Đất

5.2. Khái quát các văn bản pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất

Liên quan đến việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, hệ thống pháp luật hiện hành tập trung quy định tại các văn bản sau đây:

(i) Bộ luật Dân sự 2015;

(ii) Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;

(iii) Luật Đất đai 2013;

(iv) Nghị định 43/2014/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 15/5/2014 hướng dẫn thi hành Luật Đất đai 2013;

(v) Nghị định 01/2017/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 03/03/2017 sửa đổi nghị định hướng dẫn Luật Đất đai.

Trong đó, Luật Đất đai 2013 được coi là văn bản chuyên ngành quan trọng nhất.

Từ ngày 01/7/2014, sau khi Luật Đất đai 2013 có hiệu lực thi hành cho tới nay, hệ thống pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại nước ta đã có nhiều thay đổi, chuyển biến tích cực. Theo đó, nhiều quy định pháp luật mới liên quan tới việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất nói chung và giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nói riêng được ban hành nhằm giải quyết những vấn đề tồn tại cấp bách trong thực tiễn.

Một số sửa đổi, bổ sung tại Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành so với hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trước đó về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất như:

(i) Sửa đổi, bổ sung quy định về “thẩm quyền giải quyết tranh chấp đối với trường hợp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã nhưng không thành mà đương sự không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ hợp lệ khác được pháp luật quy định”. [4]

(ii) Bổ sung quy định về “người có thẩm quyền giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất phải ra quyết định giải quyết tranh chấp. Quyết định giải quyết tranh chấp có hiệu lực thi hành phải được các bên nghiêm chỉnh chấp hành. Trường hợp các bên không chấp hành sẽ bị cưỡng chế”. [4]

(iii) Bổ sung quy định về “thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh”. [4]

(iv) Bổ sung quy định về “thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường”. [4]

(v) Sửa đổi, bổ sung quy định về “căn cứ để giải quyết tranh chấp đất đai trong trường hợp các bên tranh chấp không có giấy tờ về quyền sử dụng đất; cưỡng chế thi hành quyết định giải quyết tranh chấp đất đai, quyết định công nhận hòa giải thành”. [4]

So với những quy định pháp luật của Luật Đất đai 2003 và những quy định pháp luật trước đó về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, Luật Đất đai 2013 đã có nhiều điểm mới, điểm khác về thẩm quyền giải quyết với xu hướng tập trung và quan tâm hơn nữa đến phương thức giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân. Đồng thời Luật Đất đai 2013 cũng đã giải quyết được một số vướng mắc, sự thiếu thống nhất, mâu thuẫn trong hệ thống pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tạo ra tiền đề, cơ sở áp dụng pháp luật hiệu quả hơn.

Download miễn phí

Cơ Sở Lý Luận Về Giải Quyết Tranh Chấp Quyền Sử Dụng Đất những thông tin trên đều được kiểm chứng và đánh giá dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau của chúng tôi. Chúng tôi còn chia sẻ những bài báo cáo, khóa luận hay của các anh chị khóa trước, các bạn tha hồ kham thảo và tải miễn phí bài viết. Một lần nữa cám ơn các bạn đã tin tưởng và theo dõi luận văn Trust.

DV viết thuê đề tài : 0917.193.864

Zalo/Tele : 0917.193.864

Chia sẻ bài viết
Share on facebook
Facebook
Share on twitter
Twitter
Share on linkedin
LinkedIn
Share on telegram
Telegram
Luận Văn Trust

Luận Văn Trust

Chúng tôi là Luận Văn Trust, công việc của tôi là tổng hợp kiến thức, nội dung và sản xuất nội dung thông tin cho website luanvantrust.com ở lĩnh vực giáo dục như tài liệu báo cáo, tài liệu luận văn, tài liệu sáng kiến kinh nghiệm.

5 1 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận

Bất cứ câu hỏi nào mà bạn muốn?

0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x