Báo Cáo Kết Thúc Học Phần Môn Kỹ Năng Về Công Chứng có phải các bài viết trước chưa đủ thỏa mãn các bạn, thì hôm nay luận văn trust chia sẻ thêm bài viết này, để hỗ trợ các bạn có thêm nguồn tài liệu kham thảo cho bài báo cáo tốt nghiệp của các bạn, chúc các bạn có một bài báo cáo hoàn chỉnh và đạt điểm cao.
Quá trình làm báo cáo thực tập, các bạn học viên có thể xem qua dịch vụ viết thuê báo cáo thực tập của Luận Văn Trust để được hỗ trợ tư vấn đè tài và báo giá viết báo cáo trọn gói nhé.
Mục lục
1. Lý luận chung – Báo Cáo Kỹ Năng Về Công Chứng
1.1. Khái niệm về người làm chứng
Theo Điều 77 Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam năm 2015, người làm chứng là người biết được các tình tiết có liên quan đến nội dung vụ việc được đương sự đề nghị, Tòa án triệu tập tham gia tố tụng với tư cách là người làm chứng. Tuy nhiên, nếu người đó bị mất năng lực hành vi dân sự thì không thể trở thành người làm chứng[1]. Bên cạnh đó tại Điều 78 của Bộ luật Tố tụng dân sự cũng quy định cụ thể và chi tiết về quyền và nghĩa vụ của người làm chứng. Mặt khác, tại Điều 66 Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015 quy định người làm chứng là người biết được những tình tiết có liên quan đến các thông tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập để làm chứng[2]. Không chỉ vậy, trong Điều 62 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 cũng xuất hiện thuật ngữ pháp lý “người làm chứng” cũng như các quy định về quyền, nghĩa vụ của những cá nhân này.

Ngoài ra, thuật ngữ “người làm chứng” còn được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác như Luật Hộ tịch năm 2014 quy định: “Người đi đăng ký khai sinh nộp tờ khai theo mẫu quy định và giấy chứng sinh cho cơ quan đăng ký hộ tịch. Trường hợp không có giấy chứng sinh thì nộp văn bản của người làm chứng xác nhận về việc sinh; nếu không có người làm chứng thì phải có giấy cam đoan về việc sinh; trường hợp khai sinh cho trẻ em bị bỏ rơi phải có biên bản xác nhận việc trẻ em bị bỏ rơi do cơ quan có thẩm quyền lập; trường hợp khai sinh cho trẻ em sinh ra do mang thai hộ phải có văn bản chứng minh về việc mang thai hộ theo quy định của pháp luật”. Hoặc, khi đề cập đến cách thức thu tiền của người phải thi hành án đang do người thứ ba giữ, Điều 81 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) quy định: “Trường hợp phát hiện người thứ ba đang giữ tiền của người phải thi hành án thì chấp hành viên ra quyết định thu khoản tiền đó để thi hành án. Người thứ ba đang giữ tiền của người phải thi hành án có nghĩa vụ giao nộp tiền cho chấp hành viên để thi hành án. Chấp hành viên lập biên bản thu tiền, cấp biên lai cho người thứ ba đang giữ tiền và thông báo cho người phải thi hành án. Trường hợp người thứ ba đang giữ tiền không ký vào biên bản thì phải có chữ ký của người làm chứng”. Ngoài ra, tại Luật Thi hành án dân sự, người làm chứng còn được vận dụng khi tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự được quy định tại Điều 68; thu tiền của người phải thi hành án đang giữ được quy định tại Điều 80; kê biên đồ vật bị khóa, đóng gói được quy định tại Điều 93…
Như vậy, có thể thấy rằng người làm chứng được pháp luật quy định làm chứng trong nhiều quan hệ pháp luật, trong đó chủ yếu là các hoạt động tố tụng. Qua đó có thể chia người làm chứng thành hai nhóm: Nhóm người làm chứng bị động (do biết được sự việc nên được mời làm chứng) và nhóm người làm chứng chủ động (được mời đến để làm chứng trong một số trường hợp nhất định). Bên cạnh đó pháp luật cũng quy định khá rõ ràng các vấn đề có liên quan đến người làm chứng như tiêu chuẩn của người làm chứng, những trường hợp không được làm chứng, cách thức triệu tập người làm chứng; quyền và nghĩa vụ của người làm chứng.
1.2. Quy định của pháp luật về người làm chứng trong hoạt động công chứng
Ngày 20/6/2014, tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật công chứng số 53/2014/QH13 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015. Tại Khoản 2, Điều 47 Luật công chứng 2014 qui định trong trường hợp pháp luật quy định việc công chứng phải có người làm chứng, đây là trường hợp bắt buộc khi tham gia công chứng phải có sự tham gia của người làm chứng để đảm bảo tính chất pháp lý của giao dịch đang muốn thực hiện. Trong trường hợp này người yêu cầu công chứng không đọc được hoặc không nghe được hoặc không ký và không điểm chỉ được, vì vậy buộc phải có người làm chứng. Có thể do người yêu cầu công chứng mời, nhưng cũng có thể công chứng viên chỉ định nếu họ không mời được người làm chứng.
Mặt khác, tại Khoản 2, Điều 47 Luật công chứng 2014 cũng quy định khi mời người làm chứng tham gia hoạt động giao dịch cần công chứng người đó phải từ đủ 18 tuổi trở lên và có đầy đủ năng lực hành vi dân sự; đồng thời họ cũng không có quyền, lợi ích hay nghĩa vụ gì về tài sản liên quan đến giao dịch đang cần công chứng[3].
Bên cạnh đó, tại Điều 48 Luật công chứng cũng quy định đối với việc ký, điểm chỉ trong văn bản công chứng có người làm chứng tham gia[4]. Ngoài ra, người làm chứng còn được quy định tham gia công chứng trong các luật khác như Bộ luật Dân sự năm 2015.
XEM THÊM ==> Báo Cáo Thực Tập Lớp Đào Tạo Nghề Công Chứng, 9 điểm
2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về người làm chứng trong hoạt động công chứng
2.1. Những kết quả đạt được – Báo Cáo Học Phần Kỹ Năng Về Công Chứng
Trong thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về người làm chứng trong hoạt động công chứng cho thấy những kết quả khả quan và việc áp dụng các quy định pháp luật đã phù hợp, đáp ứng yêu cầu, tạo ra điều kiện cần và đủ cho một giao dịch với tính pháp lý cao.
Theo khoản 1 Điều 2 Luật Công chứng năm 2014 quy định về Công chứng, công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề có quyền pháp nhân tiến hành công chứng – chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật hợp đồng giao dịch đó phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng. Trên thực tế chúng ta thấy Công chứng viên cũng là một người có thể làm chứng, song điểm khác biệt giữa công chứng viên với những người làm chứng thông thường có lẽ nằm ở chỗ công chứng viên là một chức danh bổ trợ tư pháp, được đào tạo và bổ nhiệm để nhân danh Nhà nước đứng ra làm chứng một cách chuyên nghiệp. Vì vậy, để đảm bảo tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch mà mình công chứng, công chứng viên vẫn phải cần tới sự trợ giúp của người làm chứng trong một số trường hợp nhất định. Như vậy, việc quy định của luật trong trường hợp này là rất phù hợp, đảm bảo tính trung thực cũng như khách quan của công tác công chứng.
Để có thể hiểu rõ hơn các quy định của pháp luật quy định về quyền lợi và nghĩa vụ của người làm chứng, tại điểm c khoản 2 Điều 7 Luật Công chứng năm 2014 nghiêm cấm người làm chứng, người phiên dịch có hành vi gian dối, không trung thực khi tham gia làm chứng đối với các giao dịch cần công chứng. Đồng thời cũng quy định các trường hợp xảy ra, khi người yêu cầu công chứng không đọc được, không nghe được, không ký, điểm chỉ được hoặc trong những trường hợp khác do pháp luật quy định thì việc công chứng phải có người làm chứng. Người làm chứng phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và không có quyền, lợi ích hoặc nghĩa vụ liên quan đến việc công chứng. Người làm chứng do người yêu cầu công chứng mời, nếu người yêu cầu công chứng không mời được thì công chứng viên chỉ định.
Mặt khác, cũng theo Điều 48 Luật công chứng quy định người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch phải ký vào hợp đồng, giao dịch trước mặt công chứng viên. Trong trường hợp người có thẩm quyền giao kết hợp đồng của tổ chức tín dụng, doanh nghiệp khác đã đăng ký chữ ký mẫu tại tổ chức hành nghề công chứng thì người đó có thể ký trước vào hợp đồng; công chứng viên phải đối chiếu chữ ký của họ trong hợp đồng với chữ ký mẫu trước khi thực hiện việc công chứng. Việc điểm chỉ được thay thế việc ký trong trường hợp người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch không ký được do khuyết tật hoặc không biết ký. Khi điểm chỉ, người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch sử dụng ngón trỏ phải; nếu không điểm chỉ được bằng ngón trỏ phải thì điểm chỉ bằng ngón trỏ trái; trường hợp không thể điểm chỉ bằng hai ngón trỏ đó thì điểm chỉ bằng ngón trỏ khác và phải ghi rõ việc điểm chỉ đó bằng ngón nào, của bàn tay nào.
Việc điểm chỉ cũng có thể thực hiện đồng thời với việc ký trong các trường hợp nhằm công chứng di chúc, theo đề nghị của người yêu cầu công chứng hay công chứng viên thấy cần thiết để bảo vệ quyền lợi cho người yêu cầu công chứng. Mặt khác, cũng theo Điều 52 Luật công chứng quy định công chứng viên, người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có quyền đề nghị Tòa án tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu khi có căn cứ cho rằng việc công chứng có vi phạm pháp luật.
Từ những quy định trên, có thể thấy rằng vai trò của người làm chứng trong hoạt động công chứng luôn được pháp luật ghi nhận, người làm chứng có thể xuất hiện trong trường hợp cụ thể theo loại hình giao dịch được xác lập mà theo quy định của pháp luật phải có người làm chứng và dựa trên tình trạng thể chất của cá nhân người yêu cầu công chứng, cho dù cá nhân này giao kết bất kỳ loại giao dịch nào; đồng thời người làm chứng trong hoạt động công chứng đóng vai trò là người làm chứng một cách chủ động, chứ không thụ động như người làm chứng trong pháp luật tố tụng, đây là điểm khác biệt phân định rõ người làm chứng trong công chứng với người làm chứng trong pháp luật tố tụng. Về mặt nguyên tắc, pháp luật có thể yêu cầu sự hiện diện của người làm chứng dựa theo hai cách. Cách thứ nhất, người yêu cầu công chứng mời. Cách thứ hai, nếu người yêu cầu công chứng không mời được thì công chứng viên chỉ định người làm chứng. Ngoài ra, còn một số quy định khác có liên quan đến người làm chứng trong hoạt động công chứng như: Tiêu chuẩn của người làm chứng, cách thức thể hiện vai trò, trách nhiệm của người làm chứng… cũng đã được luật đề cập đến.
Như vậy, vai trò của người làm chứng trong hoạt động công chứng chỉ dừng lại ở mức độ trợ giúp cho người yêu cầu công chứng hiểu rõ nội dung văn bản công chứng, quyền và nghĩa vụ của bản thân hay khi người yêu cầu công chứng gặp trở ngại trong việc biểu đạt ý chí của mình. Tuy nhiên, hoạt động công chứng gắn liền pháp luật với việc điều chỉnh nhiều lĩnh vực khác nhau, vì vậy, cần xem xét và đánh giá các quy định có liên quan đến người làm chứng được ghi nhận trong những văn bản pháp luật khác để có thể hiểu rõ hơn về quyền và nghĩa vụ của người làm chứng.
Trong Bộ luật Dân sự năm 2015, vai trò của người làm chứng được đề cập tới trong việc lập di chúc; trên cơ sở đó tại khoản 5 Điều 630 Bộ luật dân sự 2015 quy định di chúc miệng được coi là hợp pháp trong trường hợp người để lại di chúc miệng thể hiện ý nguyện cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người để lại di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng phải ghi chép lại đầy đủ ý nguyện đó, đồng thời cùng ký tên hoặc điểm chỉ vào bản ghi chép.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc đó phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng[5]. Bên cạnh đó, tại Điều 634 Bộ luật Dân sự 2015 cũng quy định trong trường hợp người lập di chúc không thể tự mình viết ra bản di chúc thì có thể tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy dùm bản di chúc, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; đồng thời những người làm chứng phải xác nhận chữ ký của mình, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc[6].
Cũng tại Khoản 2, Điều 636 Bộ luật Dân sự 2015 quy định trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng[7]. Hay việc quy định tại Điều 632 Luật nêu rõ mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người được thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc; người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc; người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Từ các quy định nêu trên, tất cả các loại di chúc đều phải được thể hiện dưới hình thức văn bản và điều này hoàn toàn phù hợp với mục đích của công chứng viên là chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của giao dịch bằng văn bản. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến có rất nhiều điểm tương đồng giữa người làm chứng được quy định trong pháp luật dân sự và người làm chứng trong pháp luật công chứng. Tuy nhiên, giữa hai cách quy định về người làm chứng còn tồn tại một số điểm khác biệt. Đơn cử, nếu trở thành người làm chứng theo pháp luật công chứng, phải “có năng lực hành vi dân sự đầy đủ”, trong khi theo pháp luật dân sự, người hạn chế năng lực hành vi dân sự vẫn có thể đóng vai trò người làm chứng. Như vậy, vai trò của người làm chứng trong hoạt động công chứng chỉ dừng lại ở việc trợ giúp cho người yêu cầu công chứng hiểu rõ nội dung văn bản công chứng, quyền và nghĩa vụ của bản thân hay khi người yêu cầu công chứng gặp trở ngại trong việc biểu đạt ý chí. Tuy nhiên, từ những quy định của pháp luật liên quan tới người làm chứng trong việc lập di chúc, các nhà làm luật dường như có một cách nhìn khác về vai trò của người làm chứng trong tương quan so sánh với quy định được ghi nhận trong pháp luật công chứng. Nói theo cách khác, bên cạnh vai trò bảo đảm cho người lập di chúc hoàn toàn có thể hiểu được nội dung bản di chúc cũng như trợ giúp người lập di chúc biểu đạt ý chí của mình trên bản di chúc đó, chúng ta thấy, trong tình huống được dự liệu tại khoản 5 Điều 630 Bộ luật Dân sự năm 2015, người làm chứng đã đảm nhiệm một vai trò lớn hơn rất nhiều. Người làm chứng không những đã thể hiện, diễn đạt…, mà còn khẳng định thay ý chí của người lập di chúc thông qua việc “ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ” vào bản di chúc. Tuy nhiên, soi chiếu quy định vừa nêu dưới góc độ pháp luật công chứng và chứng thực hiện hành, chúng ta thấy tính khả thi của nội dung tại khoản 5 Điều 630 Bộ luật Dân sự năm 2015 là không cao. Bên cạnh đó, trong trường hợp di chúc có người làm chứng, khi người thừa kế tiến hành phân chia di sản theo di chúc, công chứng viên có cần yêu cầu sự hiện diện của những người làm chứng hay không? Nếu có thì sẽ phải giải quyết ra sao nếu một hoặc cả hai người làm chứng đều đã chết hoặc đơn giản hơn là không thể liên lạc được.
XEM THÊM ==> Báo Cáo Thực Tập Định Hướng Nghề Nghiệp 1 Nghề Công Chứng
2.2. Những mặt hạn chế – Báo Cáo Kỹ Năng Về Công Chứng
Bên cạnh những ưu điểm nổi bật của pháp luật mang lại trong việc quy định về vai trò, vị trí, các quyền và nghĩa vụ người làm chứng có được trong hoạt động công chứng; thực tế vẫn còn một số hạn chế, vướng mắc trong thực hiện các quy định của pháp luật về người làm chứng trong hoạt động công chứng dẫn đến khó khăn, cũng như chưa đảm bảo yêu cầu thực tiễn, chưa phát huy hiệu quả thực sự của hoạt động này. Cụ thể đó là:
+ Các nhà làm luật dân sự và pháp luật công chứng cần thống nhất lại giữa tiêu chuẩn pháp lý cũng như cách thức chỉ định người làm chứng trong thời gian tới.
+ Một số quy định chưa bao quát, ví dụ như Khoản 2 Điều 48 Luật Công chứng quy định “Việc điểm chỉ được thay thế việc ký trong trường hợp người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch không ký được do khuyết tật hoặc không biết ký. Khi điểm chỉ, người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch sử dụng ngón trỏ phải; nếu không điểm chỉ được bằng ngón trỏ phải thì điểm chỉ bằng ngón trỏ trái; trường hợp không thể điểm chỉ bằng hai ngón trỏ đó thì điểm chỉ bằng ngón khác và phải ghi rõ việc điểm chỉ đó bằng ngón nào, của bàn tay nào”. Trường hợp này nếu người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch bị cụt cả hai bàn tay không thể ký được và cũng không thể điểm chỉ được thì công chứng viên sẽ phải giải quyết tình huống này như thế nào khi mà Luật Công chứng vẫn chưa quy định cho trường hợp này. Do đó, đây được xem là “khoảng trống” trong quy định của Luật Công chứng.
+ Việc xác định nhiệm vụ, quyền hạn cũng như vai trò của người làm chứng chưa thực sự cụ thể, rõ ràng khi xác lập giao dịch cũng như trong quá trình thực hiện giao dịch đó.
+ Pháp luật quy định các trường hợp được yêu cầu sự hiện diện của người làm chứng còn hạn chế, dẫn đến việc chưa đảm bảo tính khách quan, trung thực, chính xác cho một số giao dịch, cũng như chưa đảm bảo giá trị pháp lý cho giao dịch đó khi có những người khác cùng tham gia xác lập giao dịch.
+ Một số khó khăn trong trường hợp di chúc có người làm chứng, khi người thừa kế tiến hành phân chia di sản theo di chúc có cần yêu cầu sự hiện diện của những người làm chứng hay không, nếu cần thì sẽ giải quyết như thế nào nếu một hoặc cả hai người làm chứng đều đã chết hoặc không thể liên lạc được, điều này cũng chưa thấy luật quy định.
2.3. Tình huống minh hoạ – Báo Cáo Kỹ Năng Về Công Chứng
Ví dụ 1: Gia đình anh C có mảnh đất ở nông thôn Hà Nội do các cụ để lại từ những năm 1950, cụ có 2 người con là A và B, cụ chia cho 2 anh em nhưng không ghi giấy tờ. Sau đó các cụ mất, đất đó do cụ A đứng tên trên sổ toàn bộ 500m2; đến năm 2015 cụ A trả lại một phần đất cho con cụ B (gia đình cụ B đã sinh sống trong Thành phố Hồ Chí Minh được 12 năm), trên diện tích đất đó chỉ có gia đình cụ A sinh sống, khi trả lại 2 cụ đã già đều không biết chữ và có chỉ điểm bằng ngón tay cái, có sự chứng kiến của con và cháu, nhưng không ghi tên và công chứng.
Trong vụ việc này căn cứ tại Điều 47 về người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch của Luật công chứng năm 2014 quy định như sau:
“1. Người yêu cầu công chứng là cá nhân phải có năng lực hành vi dân sự.
2. Trường hợp người yêu cầu công chứng không đọc được, không nghe được, không ký, điểm chỉ được hoặc trong những trường hợp khác do pháp luật quy định thì việc công chứng phải có người làm chứng.
Người làm chứng phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và không có quyền, lợi ích hoặc nghĩa vụ liên quan đến việc công chứng.
Người làm chứng do người yêu cầu công chứng mời, nếu người yêu cầu công chứng không mời được thì công chứng viên chỉ định”.
Như vậy, đối với trường hợp của gia đình anh C, vì hai cụ đều già không biết chữ nếu như muốn thỏa thuận tặng cho về mảnh đất và để có hiệu lực trên pháp luật thì hợp đồng cần phải có công chứng chứng thực. Nếu trong trường hợp 2 cụ là người yêu cầu công chứng không đọc được, không nghe được, không ký, điểm chỉ được hoặc trong những trường hợp khác do pháp luật quy định thì việc công chứng phải có người làm chứng. Người làm chứng phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và không có quyền, lợi ích hoặc nghĩa vụ liên quan đến việc công chứng. Người làm chứng do người yêu cầu công chứng mời, nếu người yêu cầu công chứng không mời được thì công chứng viên chỉ định.
Qua đó có thể thấy, về nguyên tắc, giao dịch về quyền sử dụng đất của 2 cụ cần phải có công chứng hoặc chứng thực. Trường hợp 2 cụ không biết viết, biết đọc thì cần phải có người làm chứng, người làm chứng cần ký tên vào văn bản. Trong trường hợp của gia đình anh C, 2 cụ thực hiện việc tặng cho nhau quyền sử dụng đất không có công chứng hoặc chứng thực. Đồng thời, hai cụ không biết đọc, không biết viết chỉ điểm chỉ bằng ngón tay cái, tuy có sự chứng kiến của con cháu nhưng những người làm chứng đó không ghi tên, không ký tên vào văn bản tặng cho. Do đó, văn bản đó có thể chưa được pháp luật công nhận do chưa đảm bảo được tính khách quan, cũng như chưa xác định rõ ý chí của các cụ.
XEM THÊM ==> Báo Cáo Thực Tập Tại Văn Phòng Công Chứng + 7 Bài Mẫu
Ví dụ 2: Chị D có mua một mảnh đất của nhà bà Lan cùng xóm, có hợp đồng đàng hoàng và hợp đồng có công chứng. Hợp đồng mua bán đất giữa chị D và bà Lan do cháu của bà Lan viết do bà Lan không biết chữ, cả hai bên đã mang ra văn phòng công chứng để công chứng hợp đồng này và bà Lan đã điểm chỉ vào hợp đồng đó trước mặt công chứng viên. Thời gian này, giá đất tăng nên bà Lan có ý lật lọng, không muốn bán cho chị D nữa lấy lí do là thủ tục công chứng không đúng, không có người làm chứng nên việc công chứng này không có giá trị, hợp đồng này coi như chưa được công chứng, vi phạm về hình thức nên vô hiệu.
Đối với vụ việc này căn cứ vào khoản 2, Điều 47 Luật Công chứng 2014 quy định: “Trường hợp người yêu cầu công chứng không đọc được, không nghe được, không ký, điểm chỉ được hoặc trong những trường hợp khác do pháp luật quy định thì việc công chứng phải có người làm chứng. Người làm chứng phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và không có quyền, lợi ích hoặc nghĩa vụ liên quan đến việc công chứng. Người làm chứng do người yêu cầu công chứng mời, nếu người yêu cầu công chứng không mời được thì công chứng viên chỉ định”.
Trên cơ sở các thông tin chị D cung cấp có thể thấy, chị D có ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với bà Lan và bà Lan không biết chữ, hợp đồng này do cháu bà Lan soạn thảo và đã được công chứng tại văn phòng công chứng nhưng không có người làm chứng và bà Lan có điểm chỉ.
Căn cứ theo quy định của Luật, vấn đề người làm chứng chỉ đặt ra khi thực hiện thủ tục công chứng nếu người đề nghị thực hiện thủ tục công chứng là bà Lan; trong trường hợp người đề nghị thực hiện công chứng là chị D thì việc có hay không có người làm chứng không ảnh hưởng đến giá trị pháp lý của văn bản công chứng, hợp đồng vẫn được coi là đã thực hiện thủ tục công chứng.
Tuy nhiên, theo Điều 117 Bộ Luật dân sự 2015 quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự như sau:
“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định”.
Trong trường hợp này, hợp đồng giữa chị D và bà Lan công chứng, bắt buộc phải có người làm chứng nhưng không có người làm chứng thì hợp đồng này vi phạm quy định của pháp luật về hình thức của hợp đồng.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, hình thức của hợp đồng chỉ là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, khi thỏa mãn điều kiện này thì hợp đồng mới có hiệu lực.
Trong trường hợp vi phạm quy định về hình thức thì hợp đồng không bị tuyên bố vô hiệu ngay mà Tòa án sẽ cho thời gian để hai bên hoàn thiện điều kiện về hình thức, nếu hết thời hạn này mà hai bên vẫn chưa hoàn tất được điều kiện về hình thức thì khi đó, Tòa mới tuyên bố hợp đồng vô hiệu.
Như vậy, cho dù hợp đồng giữa chị D và bà Lan có vi phạm quy định về người làm chứng khi thực hiện thủ tục công chứng thì điều đó không đồng nghĩa với việc hợp đồng giữa chị D và bà Lan vô hiệu, mà chỉ khi kết thúc thời hạn Tòa đưa ra để hai bên “sửa chữa” sai sót về hình thức của hợp đồng, hình thức của hợp đồng vẫn chưa đúng theo quy định của pháp luật thì Tòa mới tuyên hợp đồng giữa chị D và bà Lan không có hiệu lực.
Như vậy, khi áp dụng các quy định của pháp luật về người làm chứng trong quá trình tham gia các giao dịch có công chứng cũng cần căn cứ vào các quy định cụ thể của Luật, các điều kiện cần và đủ để xác định người làm chứng tham gia giao dịch đó có giá trị pháp lý hay không.

[1] Điều 77 Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam năm 2015 quy định: “Người biết các tình tiết có liên quan đến nội dung vụ việc được đương sự đề nghị, Tòa án triệu tập tham gia tố tụng với tư cách là người làm chứng. Người mất năng lực hành vi dân sự không thể là người làm chứng”.
[2] Khoản 1 Điều 66 Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015 quy định: “ Người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng”.
[3] Khoản 2 Điều 47 Luật công chứng quy định: “Trường hợp người yêu cầu công chứng không đọc được, không nghe được, không ký, điểm chỉ được hoặc trong những trường hợp khác do pháp luật quy định thì việc công chứng phải có người làm chứng. Người làm chứng phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và không có quyền, lợi ích hoặc nghĩa vụ liên quan đến việc công chứng. Người làm chứng do người yêu cầu công chứng mời, nếu người yêu cầu công chứng không mời được thì công chứng viên chỉ định”.
[4]Điều 48 Luật công chứng 2015 quy định: “1. Người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch phải ký vào hợp đồng, giao dịch trước mặt công chứng viên. Trong trường hợp người có thẩm quyền giao kết hợp đồng của tổ chức tín dụng, doanh nghiệp khác đã đăng ký chữ ký mẫu tại tổ chức hành nghề công chứng thì người đó có thể ký trước vào hợp đồng; công chứng viên phải đối chiếu chữ ký của họ trong hợp đồng với chữ ký mẫu trước khi thực hiện việc công chứng.
- Việc điểm chỉ được thay thế việc ký trong trường hợp người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch không ký được do khuyết tật hoặc không biết ký. Khi điểm chỉ, người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch sử dụng ngón trỏ phải; nếu không điểm chỉ được bằng ngón trỏ phải thì điểm chỉ bằng ngón trỏ trái; trường hợp không thể điểm chỉ bằng hai ngón trỏ đó thì điểm chỉ bằng ngón khác và phải ghi rõ việc điểm chỉ đó bằng ngón nào, của bàn tay nào”.
[5] Khoản 5 Điều 630 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạ 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng”.
[6] Điều 634 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì có thể tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc”.
[7] Khoản 2, Điều 636 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng”.
Báo Cáo Kết Thúc Học Phần Môn Kỹ Năng Về Công Chứng Những thông tin được chúng tôi trình bày, thể hiện trong bài viết trên đều được kiểm chứng và đánh giá dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau, hy vọng với những thông tin mình vừa trình bày, có thể giúp cho bài báo cáo thực tập của các bạn được hoàn thiện hơn. Ngoài ra, chúng tôi còn chia sẻ rất nhiều bài viết với nhiều chủ đề khác nhau phục vụ cho bài báo cáo thực tập, khóa luận tốt nghiệp, mời các bạn theo dõi website để cập nhật những bài viết mới nhất.
Dv viết thuê đề tài : 0917.193.864
Zalo/Tele : 0917.193.864